Friday, 17 April 2009
Wednesday, 8 April 2009
Cố đấm liệu có ăn xôi? (April 09, 2009)
Cuộc chơi tốn kém của Vịnh Hạ Long |
16:56' 08/04/2009 (GMT+7) |
>> Ai đảm bảo Vịnh Hạ Long không bị loại lần nữa? Nhân việc Đại sứ quán Hàn Quốc vừa khai trương gian quảng bá Vịnh Hạ Long lần thứ hai tại khách sạn Daewoo Hà Nội dưới sự chủ trì của Bộ VH-TT-DL, VietNamNet đã phỏng vấn ông Trần Chiến Thắng, Thứ trưởng Bộ VH-TT-DL kiêm Tổng cục trưởng Tổng cục Du lịch quanh diễn biến mới của cuộc vận động bầu chọn này. |
Rất nhiều doanh nghiệp đã bỏ không ít tiền để tài trợ cho cuộc vận động Vịnh Hạ Long trở thành kỳ quan thiên nhiên thế giới mới của new7wonders như: Tập đoàn điện lực VN, Tập đoàn dầu khí VN, Tổng công ty hàng không quốc gia VN, tập đoàn Kumho Asiana của Hàn Quốc.... Ngoài chi phí trang bị máy tính nối mạng ở các điểm bình chọn, các đơn vị đứng ra vận động bầu chọn cho Vịnh Hạ Long phải chi một số tiền không nhỏ cho việc quảng bá sự kiện. Sau sự kiện Vịnh Hạ Long bị loại khỏi cuộc bầu chọn danh sách bầu chọn các kỳ quan thiên nhiên của thế giới ngày 14/4/2008, new7wonders đã ra quy định rằng các đơn vị muốn quảng bá bầu chọn cho vịnh Hạ Long phải trả chi phí từ 2.500-5.000 USD/tháng cho tổ chức trên. Theo thống kê của Alexa, địa chỉ uy tín chuyên xếp hạng các website trên thế giới thì new7wonders hiện tại đứng thứ 15.703 (tính đến 15h30 ngày 8/4) và chỉ xếp thứ 7.407 về lượng truy cập trong số các trang web tại Việt Nam.
- Nhiều ý kiến cho rằng cuộc vận động bầu chọn cho Vịnh Hạ Long trở thành di sản thiên nhiên của thế giới quá tốn kém mà không biết Vịnh Hạ Long có lọt được vào top 21 kỳ quan được đề cử và sẽ công bố vào ngày 1/7 sắp tới không. Ông nghĩ gì về nhận xét này?
- Tôi cũng chưa biết là nó tốn kém đến mức nào nhưng việc mỗi người bỏ ra một phần thời gian rất nhỏ của mình để ngồi trước máy tính bầu chọn cho Vịnh Hạ Long thì không có gì tốn kém. Có một số người nói việc bầu chọn cho Vịnh Hạ Long tốn kém nhưng tôi không biết so với cái gì để nói là tốn kém. Việc tôn vinh một di sản của Việt Nam đối với thế giới thì có lẽ bao nhiêu cũng không đủ.
- Nhưng trên thực tế Vịnh Hạ Long đã được UNESCO công nhận là di sản thế giới tới hai lần. Lần này chúng ta đang vận động cũng cho địa danh ấy danh hiệu di sản thiên nhiên thế giới, nhưng do một tổ chức tư nhân đứng ra bầu chọn. Đây được cho là một việc làm không cần thiết, nhận xét đó theo ông có xác đáng?
- Tôi thấy lớp trẻ rất quan tâm đến kỷ lục Guinness do một ông chủ quán bia lập ra. Tôi không biết có nên so sánh việc new7wonders bầu chọn các kỳ quan thiên nhiên của thế giới với Guinness hay không, nhưng ít nhất có một người đứng ra khởi xướng và quảng bá cho địa danh của chúng ta, tôi nghĩ chúng ta không nên từ chối.
- Mỗi cuộc chơi có một bản sắc riêng, cách thức riêng, cách tiếp cận riêng nên tôi không nghĩ cái này có thể so với cái khác. Cơ quan văn hoá khoa học đánh giá bằng những giá trị khoa học còn đây người ta chỉ chọn tính hấp dẫn. Anh có thể học rất giỏi nhưng không hấp dẫn. Anh có thể là tiến sĩ, giáo sư nhưng lại không đẹp trai. Anh có thể được chọn ở qui mô quốc gia nhưng ở làng có thể có người đẹp hơn mà họ không đi thi.
Cho nên, mỗi một cuộc chơi có một cách tiếp cận riêng. Và nếu nó mang lại lợi ích cho chúng ta ở tầm cỡ quốc gia là quảng bá hình ảnh cho đất nước mà chỉ có mỗi một việc ngồi vào máy tính là đã góp một hành động, một tiếng nói nhỏ tôn vinh cho địa danh của đất nước, thì nên làm.
- Tất cả số phiếu bầu chọn cho Vịnh Hạ Long không bao giờ được công bố và tỉnh Quảng Ninh đã thông báo chính thức rằng, kể từ khi có cuộc bầu chọn này khách quốc tế đến Vịnh Hạ Long rất đông và tăng đột biến. Số liệu cụ thể thì tôi chưa có, nhưng lượng khách tăng ít nhất 30%.
Ông có tin Vịnh Hạ Long sẽ lọt vào top 21 kỳ quan thiên nhiên có trong shortlist sẽ công bố ngày 1/7 tới trước khi chọn ra 7 cái tên cuối cùng?
- Tôi tin nếu tất cả chúng ta cùng bỏ phiếu. Bất cứ quốc gia nào cũng cố gắng vận động bầu chọn cho chính mình, tất nhiên!
- Bích Hạnh (thực hiện)
Wednesday, 1 April 2009
Chủ nghĩa thực dân mới mang đặc sắc Trung Quốc (April 02, 2009)
La Chine mélange le riz avec le néo-colonialisme
Lorsque la Chine, l’un des pays les plus corrompus dans le monde, commence à distribuer des milliards de dollars en forme d’aide et de contrats d’affaires en Afrique, continent le plus corrompu du monde, les alarmes sonnent à Washington et dans d’autres capitales occidentales. Le fait que la Chine tourne un oeil aveugle envers les abus très répandus de droits de l’Homme dans ce continent intensifie encore plus les inquiétudes de l’Occident.
Sécuriser l’approvisionnement du pétrole constitue la principale raison pour l’agressivité de la Chine pour développer ses liens économiques avec l’Afrique. Afin d’alimenter sa croissance économique phénoménale qui a fait une moyenne annuelle de plus de 9% ces 20 dernières années, la Chine a besoin de pétrole ainsi que de matières premières. N’étant pas riche en réserves pétrolières, la Chine est devenue de plus en plus dépendante du pétrole importé.
Entre temps, l’Afrique abrite 8% des réserves mondiales de pétrole, ce qui incite la Chine à dépenser des milliards de dollars dans le but d’obtenir les droits de forage au Nigeria, au Soudan et en Angola tout en négociant des contrats d’exploration avec le Tchad, le Gabon, la Mauritanie, le Kenya, la Guinée Equatoriale et la République du Congo. Le continent représente actuellement 25% des importations pétrolières de la Chine. Par contre, les Chinois sont aussi les investisseurs principaux dans l’industrie de cuivre en Zambie et dans la République Démocratique du Congo. De plus, ils sont en train d’acheter du bois au Mozambique, au Liberia, au Gabon, au Cameroun et en Guinée Equatoriale.
En échange de l’énergie, des ressources minérales et d’autres matières premières, la Chine fournit l’aide et l’assistance technique en offrant des prêts sans intérêt aux gouvernements africains qui sont très adaptés aux besoins des affaires. En même temps, les compagnies chinoises ont gagné des contrats pour construire des autoroutes, des pipelines, des barrages hydroélectriques, des hôpitaux, des stades et pour moderniser des chemins de fer, des ports et des aéroports. Dès qu’il y a des endroits où les compagnies occidentales ont peur des faibles marges bénéficiaires ou des préoccupations environnementales ou politiques, les chinois s’y lancent. Les compagnies publiques de Chine sont capables de mettre les bénéfices à court terme de côté en se concentrant sur les plans économiques à long terme du gouvernement.
Quant aux scrupules environnementales et politiques, les dirigeants chinois ont fait comprendre qu’ils n’en ont pas beaucoup. Ainsi, l’approche sans condition pour faire les affaires en Afrique est en contradiction flagrante avec les soucis de l’Occident à l’égard du développement démocratique et du respect pour les droits de l’Homme. L’offre est clair : en échange des matières premières sécurisées nécessaires pour alimenter son économie vorace, la Chine ne s’ingérera pas dans les affaires internes des gouvernements africains, même si ces gouvernements sont connus pour leur corruption endémique et pour leurs abus des droits de l’Homme.
L’élite dirigeante de l’Afrique est également contente lorsque les Chinois pompent de l’argent et des marchandises bon marchées dans leurs économies sans poser aucune pression à propos de la démocratie et des droits de l’Homme qu’ils se sont habitués à entendre des partenaires occidentaux. Grâce à la Chine, la demande du pétrole, du cuivre et du platine africains augmente alors que toutes les choses fabriquées en Chine allant des tee-shirts aux ustensiles en passant par des motos sont en vente libre partout dans le continent aux prix beaucoup plus bas que ceux et celles importés d’ailleurs.
Certainement, les dirigeants africains comme Robert Mugabe du Zimbabwe et Omar Hasan Ahmad al-Bashir du Soudan sont reconnaissants à la Chine pour sa promesse d’un partenariat égal avec leurs nations. Au Soudan, Pékin est l’un des fournisseurs d’armes les plus importants de Bashir. La Chine a soutenu la résistance du président à l’encontre du stationnement des troupes de maintien de la paix dans la région du Darfour, là où les Etats-Unis ont accusé le génocide autorisé par le gouvernement d’avoir tué des centaines de milliers de personnes. L’appui chinois n’a étonné personne compte tenu du fait que plus de la moitié des exportations pétrolières du Soudan vont en Chine. En tout, le Soudan représente 5% du pétrole consommé par la Chine.
Les relations de la Chine avec les nations telles que le Soudan font craindre les officiels à Washington que l’investissement chinois ne puisse être utilisé, soit directement soit indirectement, pour soutenir les terroristes. Pour Pékin, cela montre juste un autre exemple de la pensée alarmiste de la Maison Blanche qui est apparemment déterminée de contenir l’essor de la Chine comme puissance mondiale.
Tandis que les dirigeants chinois et africains arrosent ce que Pékin qualifie d’une relation « à double gagnant », les africains moyens ne pourraient pas être tellement ravis. Dans un continent où près de la moitié de la population vit de moins d’un dollar par habitant par jour, une voiture ou un climatiseur bon marché, ou même un nouveau tee-shirt reste encore hors de portée des personnes ordinaires.
C’est vrai que les Africains ont besoin d’emplois. Bien qu’il n’y ait pas de question que les projets chinois ont créé des emplois dans certains endroits, ils ont évidemment fait perdre des emplois dans d’autres. Par exemple, en Afrique du sud et au Lesotho, on reproche la perte de dizaines de milliers d’emplois locaux dans l’industrie textile aux importations moins chères de Chine, alors la Chine a insisté sur l’embauche de travailleurs chinois dans les projets de rénovation des chemins de fer en Angola.
Bien que la politique africaine de Chine ait gagné les coeurs et les cerveaux des dirigeants du continent, le peuple africain traîne bien derrière ces « élites ». Le peuple attend de voir si le modèle d’engagement avec le continent sera différent de celui des puissances coloniales d’exploitation dans le passé.
Jusqu’ici, avec la Chine utilisant le continent comme une source de matières premières et comme un dépotoir pour ses propres biens manufacturés, la formule semble pareille.
(TMH, d’après Asia Times)
Saturday, 28 March 2009
Về những giọng ca nam của Việt Nam( March 29, 2009)
Clip minh họa: AC&M hát Anh vẫn hành quân của Huy Du. Băng tư liệu Con đường Âm nhạc số 18- Chân dung nhạc sỹ Huy Du.
Trao đổi với anh Trần Thanh Tú* về giọng hát của các nam ca sỹ Việt Nam:
1. Thôi thì mấy ông Trần Thụ, Mai Khanh, Quốc Hương, Trần Khánh,Trung Kiên, Quý Dương, Kiều Hưng, Trần Hiếu thì anh em mình sẽ chuyển sang bình luận về cảm thụ sau vì mức độ phổ cập trong danh tiếng của họ cũng khá cao... Nhưng chưa thấy anh nói về Tiến Thành, một người cùng thời với anh. Em gọi Tiến Thành là “Nghệ sỹ đặc biệt” trong phân loại tư liệu của các ca sỹ trong bộ sưu tập của em. Em có một bài khá dài trên blog về Tiến Thành, nhưng chủ yếu là dựa vào trí nhớ chắp ghép của em… Nhóm Tiến Thành, Huy Hùng, Đăng Khoa, Hữu Nội rất hay hát cùng nhau. Dù cho phần lớn các bài đồng ca của Đài không có giới thiệu từng ca sỹ, nhưng em có thể tách giọng từng người ra một. Giọng ông Đăng Khoa hơi xù xì, thô ráp nhưng có sức hút kỳ lạ. Huy Hùng có lúc hơi nhạt, nhưng em thấy giọng hát rất trẻ và tình tứ. Cũng là người Hải Phòng anh nhỉ. Ông Hữu Nội thì nhìn hình thức đúng là một ông nghiện, nhưng giọng nam cao của ông ý ở Việt Nam hiếm thật. Trong dàn hợp xướng giọng ông ý át tất cả các giọng khác ... Đặc trưng vibrato của Hữu Nội theo em là “phép rung” chứ không phải “tật rung” như Lê Dung đời đầu anh nhỉ J. Doãn Tần thì anh có nói qua và nhiều người biết. Nhưng cùng kiểu giọng như Doãn Tần em nhớ còn có Hoàng Chè. Lần làm chương trình 50 Điện Biên Phủ em có gặp chú ấy, nhưng chả có dịp nói chuyện. Hoàng Chè có bài "... hỡi đồi cao A1 ... đến Điện Biên hôm nay lòng như say điệu hát. Có mùa hoa ban ở trên nẻo đường quê xa. Có tình yêu muôn thuở là Điện Biên quê ta" hay ghê. Mà em nhớ đọc ở đâu đó có nói Hoàng Chè là thanh niên Hà Nội thứ thiệt.
2. Có những giọng nam hiền lành như anh đã nói là Ngọc Tú. Ngoài bài Mời anh đến thăm quê tôi được dàn dựng, hòa âm rất hay em còn rất thích bài Cánh chim tuổi trẻ (Tạm biệt phố phường Hà Nội, tạm biệt những mái trường … ta đi tới những miền đất mới, ta mang sức trẻ của mùa xuân …). Ngày nay có Phạm Văn Giáp có giọng gần giống Ngọc Tú. Bên cạnh Ngọc Tú em thấy có Trung Bộ của Văn công QK2 cũng có giọng nam trung hiền lành như trong "Lim dim câu hát sông cầu". Ông Trung Bộ còn hát rất hay trong tốp ca của bài Tiếng đàn bên bờ sông biên giới của Phạm Tuyên (mà những năm 80 VTV sử dụng làm nhạc hiệu chương trình ca nhạc). Có giọng nam cũng hiền lành và hơi "mềm" là Minh Quang của TCCT. Minh Quang này em rất thích khi ông ấy hát Lá đỏ, Ta ra trận hôm nay. Minh Quang song ca với Lê Dung bài Củ Chi yêu thương rất hay và nhiều bài khác nữa. Sau này có Minh Quang trẻ trẻ nữa. Nhưng Minh Quang này giọng "mô phạm" giống kiểu Trần Tựa, Trọng Thủy là những chất giọng mà em không được thích cho lắm :) Hiền lành và hơi cứng nữa thì phải kể đến chú Mạnh Hưng nổi tiếng đẹp trai của TCCT. Trong các bài hát của chú này em chỉ lưu có 2 bài là Cửa biển chiều hôm của Huy Du và Thành phố tôi yêu của Phạm Đình Sáu viết về TPHCM (Đẹp mãi mùa xuân thành phố của tôi, rộn vang tiếng ca ngợi tên Bác Hồ, sức sống sinh sôi nhịp vui hối hả ...) Nhưng em thấy Ái Vân hát bài Thành phố tôi yêu tình tứ và thiết tha hơn nhiều. Ái Vân thu bài này cùng thời với 2 bài của Hoàng Dương là Matxcova một tình yêu và Mai em đi rồi.
3. Rồi còn Phan Huấn nữa. Phan Huấn cũng hiền hiền. Ông ấy có lẽ là người đầu tiên hát Hành khúc ngày và đêm của Phan Huỳnh Điểu. Trong bản nhạc mà Phan Huấn hát không có đoạn “Rất dài và rất xa …” mà thay vào đó là đoạn vocal “hò ơ ơ…”. Phan Huấn cũng là người đầu tiên hát Đàn Tơ-rưng (Nguyễn Viêm & Huy Cận: Anh bắc qua con suối, chiếc cầu phao âm thanh …) với đoạn giả thanh ở câu cuối rất điệu nghệ và đặc sắc. Một trong những tư liệu quý của em lại chính là bài Tình ta biển bạc đồng xanh của Hoàng Sông Hương (tư liệu viết là Rừng xanh) mà ông Phan Huấn song ca cùng Tuyết Thanh. Bài hát này vốn dĩ rất hay, nhưng không hiểu sao VOV không cho lưu hành, tới mức gần đây khi Việt Hoàn, Anh Thơ và một số cặp song ca trẻ khác cover lại thì nhiều người mới biết là có bài hát này. Có người nói, bài này cũng giống như bài Tâm tình người thủy thủ của Đức Minh có hơi hướng nhạc vàng, tiểu tư sản thế nào đó nên ngày xưa bị cấm (!)
4. Bên cạnh mấy giọng nam hiền lành đó thì em còn rất thích những giọng nam khỏe khoắn, rắn chắc kiểu cổ điển, như là Quang Phác trong Hò biển mà anh đã kể sơ qua. Từa tựa như Quang Phác em thấy có Huy Giảng trong Bài ca bên cánh võng, Chiếc ba lô và bài ca tình nguyện, Hãy cho tôi lên đường … Bật hẳn lên trong nhóm này em nghĩ là Quang Hưng. Từ “hào sảng” và “lạc quan” có lẽ là hai từ rất trúng để nói về giọng hát Quang Hưng. Nó khác với “hào sảng” nhưng lại “bi tráng”, “kịch tính” và có khi “u uất” trong giọng hát của Trần Khánh.
5. Tổng hòa các vẻ đẹp của nhiều giọng nam phải kể đến Dương Minh Đức. Theo em đây là một trường hợp đặc biệt. Giọng Dương Minh Đức vừa kinh viện lại vừa trẻ trung. Rất nam tính và lại rất mềm mai, uyển chuyển. Về quãng giọng chắc sánh ngang với Trung Kiên nhưng Dương Minh Đức lại không hát gắt như Trung Kiên. Giọng Dương Minh Đức rất bay nhưng lại không bị mảnh và mái như Doãn Tần, Hoàng Chè, không chói như Hữu Nội. Dương Minh Đức hoàn hảo trong Như sóng về trùng dương của Hoàng Dương hay Nhựa bạch dương (nhạc Liên Xô). Những bài hát gắn chặt với tên tuổi Dương Minh Đức còn phải kể đến Rừng chiều của Vũ Thanh, Tôi là người thợ của Phan Thanh Nam, Hát về Tổ quốc tôi của Hữu Xuân. Bài Sa Pa thành phố trong sương hay nhất thì phải kể đến bản thu giọng hát của Ngọc Khuê (tác giả của Mùa xuân làng lúa làng hoa) với dàn nhạc dây của Đài VOV. Tuy nhiên, nhiều người vẫn thích bản của Dương Minh Đức hơn với lập luận rằng Dương Minh Đức làm toát lên được cái huyền ảo, cái mênh mang của một thành phố trong sương. Bài hát này nằm trong số các ca khúc thời chiến tranh biên giới với Trung Quốc, nhưng không hề có không khí chiến tranh. Có những bài hát gắn liền với tên tuổi của một ca sỹ. Và do đó bất kỳ ca sỹ nào hát sau đó đều được coi là liều lĩnh và khó thành công. Chẳng hạn như Quỳnh Liên và Ngọc Minh không thể cạnh tranh với Thanh Hoa trong Mùa xuân làng lúa làng hoa; Trung Anh lại càng không bao giờ làm được việc đó. Thế nhưng điều này không xảy ra với Dương Minh Đức. Bác Hồ một tình yêu bao la do Dương Minh Đức tồn tại rất chững chạc bên cạnh phiên bản đỉnh cao của Thanh Hoa. Chiều trên bến cảng của Dương Minh Đức cũng không hề bị lu mờ trước tên tuổi của Ngọc Tân… Tuy nhiên, giống như đồng nghiệp nữ của mình là Kim Phúc, giọng Dương Minh Đức ngày nay không còn được như xưa. Thậm chí nhiều người không nhận ra được Dương Minh Đức ngày xưa nếu chỉ quen với giọng hát hiện nay của ông phó hiệu trưởng nhạc viện Quân đội này.
6. Giọng nam trầm của Việt Nam hiếm anh nhỉ? Nếu liệt kê ra thì em chỉ biết có Trần Hiếu và Quang Huy. Trần Hiếu thu ở Đài VOV không nhiều đâu. Em chỉ sưu tập được chưa đến 10 bài, trong đó em thích nhất là “Những viên đạn trao từ đôi mắt” (hay Những đôi mắt mang hình viên đạn). Trần Hiếu hát Hồ Chí Minh đẹp nhất tên Người với dàn nhạc dân tộc pha với dàn nhạc dây rất hay. Đúng là em có nhiều bản, trong đó có 5 bản đỉnh, một của Kiều Hưng, một của Trung Kiên, một của Bích Liên, một của Tuyết Thanh và một của Trần Hiếu thì mỗi bản đều có một cái hay riêng. Ông Trần Hiếu còn thu Hành khúc ngày và đêm, trong đó có một đoạn hát nói rất hay. Còn Quang Huy thì em cực thích bài Đường Trường Sơn xe anh qua. Phải nói bài này hay vì một lý do rất quan trọng là phần phối khí quá hay, tiếng contrebasse sử dụng rất hiệu quả. Quý Dương thu bài này trước Quang Huy, phần phối khí bằng dàn nhạc dây cũng rất hay nhưng có vẻ bản của Quý Dương ít người biết đến hơn. Quang Huy còn hát nhiều bài nổi tiếng khác như Bên lăng Bác Hồ, Lướt sóng ra khơi. Nhưng quả thật em thấy giọng bass của Quang Huy già quá. Nhiều lúc em thấy nó hơi tối. Mà đồng chí Quang Huy này có vẻ cũng là một trong những nam nhân của làng ca nhạc thời đó. Em thấy rất hay song ca cùng Ái Vân.
7. Công nhận mấy ông “Quang” của mảng ca khúc đều “sáng” thật. Ở trên em nói đến Quang Phác, Quang Hưng, rồi Quang Huy. Còn phải kể đến Quang Mạo nữa chứ. Hồi Đoàn Ca nhạc nhẹ Trung ương của Trần Bình làm các Gala và Nhạc hội những năm đầu 90, em nhớ có bài báo giật tít là trong đêm Nhạc hội vừa qua “cả 3 Quang đều tỏa sáng”. Một Quang trong đó là Quang Mạo. Hình như Quang Mạo là người nhà của Ngọc Lan nhạc viện thì phải. Ngày xưa em đọc báo Hà Nội mới thấy nói thế. Quang Mạo dẫn dẵt cho Ngọc Lan vào Nhà hát nhạc vũ kịch hay sao đó. Về Ngọc Lan chắc em sẽ nói tới trong một dịp khác vì hôm nay chúng ta nói về các nam ca sỹ. Nhưng dù sao em cũng nói luôn là mấy cô giáo thanh nhạc “nổi tiếng” hiện nay như Ngọc Lan, Hà Thủy… đều không có tác phẩm để đời trong VOV. Họ hát mấy bài trong VOV đuối lắm…
8. Quang thứ 2 mà bài báo nói đến là Quang Huy thì em đã nói rồi. Còn Quang thứ 3 chính là Quang Thọ. Nói đến Quang Thọ thì em lại phải trở lại với đặc điểm giống Trần Hiếu là Quang Thọ cũng rất có ít bài thu âm tại VOV. Hình như những năm 70, 80, Quang Thọ chả có tên tuổi gì cả, hoặc là ông ấy còn ở văn nghệ quần chúng, còn ở địa phương. Em tuyệt nhiên không tìm được bản thu âm nào của Quang Thọ lúc trẻ. Đến Đức Long, cũng là người Quảng Ninh, mà em còn tìm được bản thu năm 1979, khi đó tên là Đỗ Đắc Long (không biết các kỹ thuật viên có ghi nhầm tên không, nhưng giọng thì đúng là của Đức Long). Nhưng với Quang Thọ em chỉ tìm được các bản thu sau này. Và em cũng chỉ lưu hai bản là Vang mãi bản tình ca của Trọng Bằng và Ta tự hào đi lên ôi Việt Nam là hai bản mà em rất “chịu” Quang Thọ. Còn thực ra em không khoái giọng Quang Thọ lắm đâu vì em thấy chú ấy cứ ngậm miệng lại, tiếng hát nó trở nên không khoáng đạt.
9. Cũng là nghệ sỹ nhân dân nhưng rất ít bản thu trong hai thập kỷ 70 và 80 tại Đài là đồng hương của em, và cũng là đồng hương của bà Thương Huyền, đó là Trung Đức. Trong “thời xa vắng” của nhạc VOV, em tìm được mỗi một bản của Trung Đức là Hò biển. Giọng vang, sâu và bay lắm, chứ không bị gân guốc như gần đây. Nhưng bù lại sự thiếu hụt thuở xưa, Trung Đức thu âm khá nhiều trong những năm cuối 80 và đầu 90. Nhưng em lại xếp những bản thu đó vào nhóm “Nhạc trẻ thập niên 80-90” chứ không phải nhóm “Kinh điển Việt Nam” trong tổ chức bộ sưu tập của em. Phải công nhận loạt bài thời đó của Trung Đức thực sự khiến chú ấy là sao của bầu trời ca nhạc Việt Nam khi đó, nhất là trên truyền hình, cùng với Thanh Hoa, Thu Hiền là những người có tần số xuất hiện trên truyền hình vào hàng số một. Những tác phẩm để đời của Trung Đức phải là Thì thầm với dòng sông, Đi tìm câu hát lý thương nhau, Hoa bằng lăng, Biển hát chiều nay… Nhưng em nghe nói, cũng như Mạnh Hà, thậm chí cả Lê Dung, Trung Đức rất khổ sở về nhịp. Như thế là sao nhỉ? Như thế thì có lẽ họ nên hát với piano anh nhỉ?
10. Thời kỳ Trung Đức oanh tạc ở miền Bắc và trên truyền hình thì em nhớ là ở miền Nam có Quang Lý, Thế Hiển, Lê Hành rất sáng. Lê Hành tất nhiên có Con kênh ta đào được em xếp vào nhạc kinh điển. Nhưng chủ yếu, cũng như Trung Đức, em xếp các bài hát của mấy vị này vào phần nhạc trẻ. Sau này thì thấy rằng, nói một cách thật chính xác thì họ là thế hệ chuyển tiếp, là cái gạch nối giữa kinh điển và nhạc trẻ. Thời kỳ của họ đánh dấu giai đoạn cuối cùng trong tính “nhất nguyên” trong đời sống âm nhạc Việt Nam trước khi chúng ta chuyển sang thời kỳ “tam giáo đồng nguyên” trong đó nhạc đỏ, vàng, xanh cùng tồn tại, cùng phát triển mà em sẽ bàn với anh trong dịp khác… Quang Lý sau này em không thích lắm, giọng giống Ngọc Tân lúc về già, tức là mũi bị sao đó, nhưng không sáng bằng Ngọc Tân. Tuy nhiên Quang Lý hát Thuyền và Biển và đoạt giải 3 trong cuộc thi đơn ca chuyên nghiệp toàn quốc năm 88 thì thật là không ai bằng. Thế Hiển năm đó hát Đất nước, Chuyện ngày xưa chuyện ngày nay, Cây đàn ghita của Lorica cũng trở thành những bài đóng đinh trên sóng VOV cho tới nay. Vì Lê Hành hát một bài hit thời kỳ đó là Một rừng cây một đời người mà em xếp chú ấy vào nhóm nhạc trẻ 80-90!
11. Thật lạ là sau lớp Trung Đức, Quang Lý thì chúng ta bị gián đoạn một thời gian, không có gương mặt nào sáng bật lên. Nói đúng ra thì lớp sau phải kém lớp Trung Đức, Quang Lý 10, 15 tuổi. Hồi đó thì nhạc trẻ miền Nam và Hải Đăng nổi quá rồi với Ngọc Sơn (Chiếc vòng cầu hôn), Thanh Nam (Câu chuyện nhỏ của tôi), Anh Duy (Thuyền và biển), Đỗ Hữu Xuân (Trở về dòng sông tuổi thơ)... Hay dòng nhạc Phú Quang, Dương Thụ, Trần Tiến nổi lên làm nổi danh Thanh Long bass, hay Nguyễn Hoàng với Tùy hứng lý qua cầu. Nhưng đó là nhạc trẻ và toàn là ở phương Nam. Còn nhạc đỏ thì cũng chính các nam ca sỹ ở miền Nam mới chiếm lĩnh thị trường. Đó chính là phong trào các ca sỹ miền Nam hát nhạc đỏ với đầy đủ những Lệ Thu (Trường Sơn Đông, Trường Sơn Tây), còn nam ca sỹ thì có Thế Sơn (cover lại Lá đỏ, Ngọn đèn đứng gác) hay Quang Bình (Trang Thanh Lan), thậm chí cả Nguyễn Hưng … Nhưng đó cũng là kiểu hát nhạc đỏ mà em mãi không làm quen và chấp nhận được. Điều em muốn nói ở đây là lúc này ở miền bắc các nam ca sỹ trẻ thật sự là thiếu. Minh Thắng có thấp thoáng xuất hiện ở Đoàn ca nhạc nhẹ trung ương với mấy bài, như Thuyền và biển (Hữu Xuân) hay Điều giản dị, Mùa xuân tương lai nhưng sau đó biến mất hoàn toàn. Quang Vinh thì không hẳn là ca sỹ. Bên Nhà hát Tuổi trẻ thì Hồng Kỳ, Thanh Tùng bắt đầu lo chạy theo nhạc trẻ của thị trường. Phải đến 93, 94 Tấn Minh mới xuất hiện nhưng chủ yếu là kiểu ca sỹ học trò và không xác định được rõ thế mạnh. Cũng trong thời kỳ xuất hiện Tấn Minh thì khán thính giả rất có cảm tình với các sinh viên của Trường Văn hóa nghệ thuật quân đội với các gương mặt như Ngọc Lê, Hồng Hải, Minh Hoa, Hương Mơ. Nam thì có Thế Vũ, Hồ Tùng. Hồ Tùng sau này vì mắc bạo bệnh nên sức khỏe suy sụp, có thời em thấy chuyển sang dạy hát trên VOV. Thế Vũ khá sáng sủa, có lúc được liệt vào cùng thứ hạng với Thanh Lam, Mỹ Linh … nhưng lúc về Nhà hát Ca múa nhạc Việt Nam của Tiến Định lại không phát huy mấy. Anh này giờ đã chuyển sang kinh doan … Rõ ràng đây là thời kỳ tranh tối tranh sáng trong mảng ca khúc ở Việt Nam mà trong đó phần nhạc kinh điển bị lép vế, các nam ca sỹ bị xuống hạng.
12. Chắc sẽ có một dịp anh sẽ kể cho em nghe về các ca sỹ của phong trào “Khắp nơi ca hát”. Qua nói chuyện với anh thì em biết rằng Tuyết Minh, Chu Thanh Hương, hay Phương Nhung (thời kỳ đầu) là những người như vậy. Còn thời của em thì em biết đến Quỳnh Liên, Tuyết Tuyết, Minh Châu, Quỳnh Hoa (hơi đuối hơn) … Rõ ràng nghe họ hát thì không thể phân biệt được chuyên hay không chuyên, càng không thể gọi họ là dân nghiệp dư. Có lẽ ở đây chuyên hay không chuyên chỉ là nói đến họ có qua trường lớp chính quy hay không mà thôi. Trong nghệ thuật thì trường lớp không phải là yếu tố quyết định tất cả. Còn nói dến các nam ca sỹ không chuyên thì em biết Đức Diên qua Một thoáng Tây Hồ, Mỗi bước ta đi thêm yêu Tổ quốc. Anh này năm kia còn xuất hiện để bình luận về các Sao Mai dòng thính phòng và dân gian. Nhưng theo em “hiện tượng” trong phong trào “Khắp nơi ca hát” phải là Tốp nam nhà máy toa xe Hải Phòng. Hình như ông Huy Túc là từ đây mà ra? Có lẽ phải gọi họ là một đoàn ca nhạc chuyên nghiệp mới đúng. Cứ nghe họ hát Đêm Trường Sơn nhớ bác, Đường tàu mùa xuân, Ta ra trận hôm nay … thì có lẽ chỉ có AC&M hiện nay nếu chưa tan rã mới có thể cover lại được J
Thôi nói tới AC&M là phải nói đến thế hệ trẻ sau này rất lâu rồi. Em sẽ trở lại và hầu chuyện anh về “hình sin” trong đồ thị âm nhạc Việt Nam vào lần sau, trong đó có sự hồi sinh của dòng nhạc kinh điển sau đỉnh cao và bão hòa của nhạc trẻ Việt Nam. Còn bây giờ chúng ta nghe AC&M hát Anh vẫn hành quân của Huy Du. Băng tư liệu này lấy từ Live show Con đường Âm nhạc số 18- Chân dung nhạc sỹ Huy Du.
---
* Trần Thanh Tú: Bạn diễn trong những năm 80's của các ca sỹ Ái Vân, Lệ Quyên, Họa Mi, Thanh Lam... Là học trò của Quý Dương, Diệu Thúy. Anh Tú từng là giám khảo chấm Hồng Nhung trong một cuộc thi năm 1987
Wednesday, 22 October 2008
CNTB "lại" giãy chết !!! (October 22, 2008)

BBC Việt ngữ đăng tin này rất thú vị : Bộ Tư bản của Marx hiện trở thành sách bán chạy trong giới thanh niên của Đức, những người tỏ ra mất niềm tin vào khả năng điều hành và giải quyết các vấn đề kinh tế của chính phủ hiện nay của họ và muốn đi tìm những kiến giải và giải pháp từ tác phẩm kinh điển của Marx.
Trong khi đó tạp chí Spiegel, bản tiếng Anh của Đức vừa thực hiện một bài phỏng vấn khá hay với giáo sư Muhammad Yunus (Bangladesh), người đoạt giải Nobel Hòa bình năm 2006 nhờ mô hình xóa đói giảm nghèo bằng các khoản tín dụng nhỏ. Theo ông Yunus, thị trường tài chính trong thời gian dài vừa qua với sự thiếu điều tiết chính là thủ phạm gây ra cuộc khủng hoảng tín dụng- kinh tế hiện nay. Câu nói nổi tiếng của ông đã trở thành cảm hứng cho hàng loạt các titres báo ở phương Tây trong những ngày qua : lòng tham tối đa hóa lợi nhuận bằng mọi cách đã hủy hoại hệ thống tài chính thế giới, và rằng « chủ nghĩa tư bản đã suy đồi thành một sòng bạc ». Nói về nền kinh tế- tài chính Mỹ, ông Yunus nói, ở Mỹ hệ thống tài chính với hình thức cho vay thế chấp dành cho bất động sản đã bị tách rời ra khỏi nền kinh tế thực, cũng giống như người ta xây các lâu đài « trên mây », để rồi một ngày nào đó bỗng nhận ra rằng chẳng hề có những tòa lâu đài đó và thế là thị trường tài chính sụp đổ.
Cũng với lập trường đó, ông Yunus cho rằng kế hoạch cứu nguy hệ thống ngân hàng trị giá 700 tỉ đô la mà Quốc hội Mỹ cuối cùng đã thông qua, hay những kế hoạch giải cứu tương tự của Pháp, Đức là những biện pháp tuy cần thiết trong thời điểm hiện tại (đơn giản là vì chẳng còn sự lựa chọn nào khác) nhưng lại không phải là một điều hay ho vì nó cho thấy một sự xói mòn nghiêm trọng về lòng tin đối với thị trường, sự bất lực, thậm chí biến mất của « bàn tay vô hình » trong lý thuyết của Adam Smith. Ông Yunus cho rằng, về lâu dài, chủ nghĩa tư bản với các cơ chế vận hành theo thị trường, phải sống lại và phải có khả năng tự giải quyết các vấn đề của mình. Chính phủ chỉ được phép can thiệp nhằm tăng cường cơ chế điều tiết, chứ không được phép điều khiển thị trường.
Cuối cùng, ông Yunus kêu gọi các doanh nghiệp, các tập đoàn tài chính hãy đề cao trách nhiệm xã hội của họ, bên cạnh mục tiêu chạy theo lợi nhuận. Nói cách khác, ông này cổ vũ cho mô hình tín dụng nhỏ mà Ngân hàng Grameen của ông đã và đang theo đuổi và nhờ nó mà ông đã được thưởng Giải Nobel Hòa bình.
Thursday, 15 May 2008
Vietnam's quest for role models (May 15, 2008)

Cao Đài, một tôn giáo trong nước mang tính hòa hợp của Việt Nam, pha trộn giữa đạo Phật, đạo Lão, đạo Cơ đốc, đạo Hồi và những tôn giáo khác, giáo huấn rằng tất cả những niềm tin là sự biểu thị của "cùng một chân lý". Giáo phái này được sáng lập vào năm 1926 bởi Ngô Văn Chiêu, một công chức nhà nước. Đến những năm 40, Cao Đài đã phát triển thành một lực lượng mạnh có quân đội riêng. Giáo phái này từng ủng hộ sự chiếm đóng của Nhật Bản và đôi khi cả với chế độ thân Mỹ ở miền Nam Việt Nam, vì thế sau năm 1975 Cao Đài bị những người cộng sản kiềm chế. Đến nay, khi chính phủ xóa bỏ những hạn chế tôn giáo, Cao Đài đã quay được sự ưa chuộng trở lại mặc dù vẫn phải chịu sự kiểm soát chặt chẽ. Tháng 2/2008, các thành viên của Ủy ban Tôn giáo Chính phủ đã tham dự một buổi hành lễ cùng 200.000 tín đồ Cao Đài tại một điện thờ lớn.
Sự phát triển trở lại của đạo Cao Đài đi kèm với chính sách đối ngoại của Việt Nam mong muốn "làm bạn với tất cả các nước". Nói một cách rộng hơn, niềm tin tôn giáo phản ánh đặc điểm tinh hoa của dân tộc Việt Nam, đó là tìm kiếm những khuôn mẫu tiêu biểu, sau đó tìm cách đưa những nét nổi bật của mình vào trong những khuôn mẫu đó theo cách thức phù hợp của Việt Nam. Đặc điểm này đã xuất hiện một cách tự nhiên ở một đất nước từng bị xâm chiếm và đô hộ bởi quá nhiều thế lực ngoại bang. Hệ thống luật pháp của Việt Nam hiện nay chủ yếu dựa trên những nguyên tắc pháp lý thuộc Pháp, nhưng lại có những thay đổi để phù hợp với các mô hình của Trung Quốc và Liên Xô cũ. Khi Việt Nam còn nằm dưới sự che chở của Liên Xô trong suốt thời kỳ Chiến tranh Lạnh, họ đã bắt chước mô hình kinh tế chủ nghĩa tập thể của nước này và để lại những hậu quả thảm khốc. Tiếp theo đó, Việt Nam lại ganh đua với mô hình chủ nghĩa xã hội thị trường của Đặng Tiểu Bình. Gần đây, họ lại được thuyết phục bởi các đặc điểm trong mô hình tăng trưởng xóa đói giảm nghèo của các cơ quan Liên Hợp Quốc và Ngân hàng Thế giới cũng như các lý thuyết nền tăng của hệ thống phúc lợi xã hội ở các nước châu Âu.
Dấu ấn Trung Quốc
Những phát triển gần đây cho thấy Việt Nam đáng được xem là một Trung Quốc thu nhỏ khi mà cả hai nước đều được lãnh đạo bởi những người cộng sản tiểu tư bản hăng hái, nhưng giữa họ có sự khác biệt. Một nhà ngoại giao ở Hà Nội từng làm việc ở Bắc Kinh cho rằng "mọi thứ ở đây (Việt Nam) đều có chừng mực hơn ở Trung Quốc". Việt Nam ít thô bạo hơn đối với những người bất đồng chính kiến so với Trung Quốc và "răng nanh và móng vuốt" của chủ nghĩa tư bản ở đây cũng ít bị nhuộm đỏ hơn. Dịch vụ y tế và giáo dục đã thay đổi để thành công hơn khi chuyển đối sang kinh tế thị trường. Sự kiểm soát của Việt Nam, giống như ở Trung Quốc, chính là những hạn chế nghiêm ngặt, tuy nhiên, số lượng người sử dụng Intemet có thể truy cập vào các trang web ở nước ngoài ngày càng nhiều hơn: người sử dụng Internet Việt Nam không bị chặn bởi bức "Tường lửa khổng lồ" như ở Trung Quốc.
Trong khi Trung Quốc nằm dưới sự lãnh đạo xuyên suốt và rõ ràng của một nhà lãnh đạo tối cao - Hồ Cẩm Đào, người nắm giữ hai chức vụ Tổng Bí thư Đảng Cộng sản và Chủ tịch nước - thì Việt Nam có sự lãnh đạo tập thể. Ba trụ cột gồm Chủ tịch nước, Tổng bí thư Đảng và Thủ tướng phải đạt được sự đồng thuận cùng với vai trò ngày càng gia tăng của Quốc hội độc lập và các lực lượng quần chúng khác, đồng thời tránh làm xáo trộn nhóm anh hùng cựu chiến binh trong các cuộc chiến tranh giành độc lập của Việt Nam vẫn đang còn sống. Lãnh đạo Trung Quốc có thể ra lệnh phá hủy các dự án công trình công cộng bất chấp những hậu quả. Ngược lại, quá trình ra quyết định ở Việt Nam có vẻ như "hợp tình hợp lý hơn".
Trung Quốc áp dụng nghiêm ngặt "chính sách một con"; Việt Nam có "chính sách hai con". Trong khi dân số Trung Quốc đang già đi thì thế hệ trẻ em sinh sau chiến tranh ở Việt Nam đang bước vào độ tuổi sung sức nhất, tăng trưởng kinh tế nhanh cũng đã tạo thêm nhiều công ăn việc làm cho tất cả mọi người. Giám đốc ngân hàng HSBC tại Việt Nam, Tom Tobin nhận xét rằng trong một hoặc hai thập niên tới, trong khi đa phần dân số của thế giới già đi nhanh chóng, lớp thanh niên Việt Nam vẫn sẽ ở giai đoạn sung sức nhất trong sự nghiệp của họ.
Trung Quốc vẫn là một mô hình tiêu biểu kết hợp giữa các cải cách thị trường với tư tưởng cộng sản chủ nghĩa, cho dù đa số người Việt Nam phải miễn cưỡng thừa nhận rằng họ đang bắt chước kẻ thù ngàn năm của họ. Tuy nhiên, đảng cầm quyền Việt Nam cũng hướng tới sự giàu có của Singapore - tuy danh nghĩa là một nền dân chủ thị trường tự do nhưng thực tế là một quốc gia một đảng, nơi chính quyền vẫn kiểm soát những cấp độ chủ đạo của nền kinh tế. Ví dụ, Việt Nam đã xây dựng mô hình giống như tập đoàn Temasek - Công ty đầu tư Singapore quản lý cổ phần của nhà nước tại các doanh nghiệp bán tư nhân. Rõ ràng là Việt Nam quá lớn và quá phi tập trung hóa để có thể bắt chước mô hình của nước Singapore nhỏ bé, tuy nhiên, Đảng Cộng sản hy vọng rằng họ sẽ đúc kết được những kinh nghiệm của Đảng Hành động Nhân dân Singapore (PAP) thuyết phục cử tri tiếp tục chấp nhận vai trò lãnh đạo của họ như cái giá của sự thịnh vượng. Giống như PAP, Đảng Cộng sản Việt Nam tìm kiếm cơ hội thu hút những nhân tài và đầu tư cho các nhân sự nội bộ trong giai đoạn đầu này.
Nhận thức được giáo dục cao và cải tiến khoa học đã là những nhân tố then chốt làm nên sự giàu có của Nhật Bản, Hàn Quốc và Đài Loan, Việt Nam đang khuyến khích các tập đoàn công nghệ cao nước ngoài và mời gọi những nước giàu xây dựng các trường đại học, các cơ sở đào tạo trên đất nước họ. Một trường đại học Australia, Đại học Công nghệ Hoàng gia Melbourne (RMIT) đã mở các cơ sở đào tạo ở Thành phố Hồ Chí Minh và Hà Nội. Một trường đại học của Đức và một số trường cao đẳng công nghệ khác của Hàn Quốc cũng đang có kế hoạch thành lập. Trong khi đó, các gia đình Việt Nam, từ Thủ tướng, đang gửi con em đi học nước ngoài.
Vậy thì, nền kinh tế dung hợp của Việt Nam sẽ theo đuổi mô hình nào? Bởi vì Việt Nam đang tìm kiếm cơ hội xây dựng các tập đoàn kinh tế quốc gia mạnh, họ chưa biết chắc nên theo đuổi mô hình "keiretsu" của Nhật Bản, "chaebol' của Hàn Quốc hay mô hình các tập đoàn chuyên sâu trong một lĩnh vực kinh doanh chủ chốt kiểu Anh. Có lẽ họ sẽ cóp nhặt những gì tinh túy nhất từ những mô hình này. Nhưng, Tony Salzman, một doanh nhân người Mỹ ở Việt Nam lại lo ngại về mối đe dọa khi "râu ông nọ cắm cằm bà kia!"
La quête des modèles au Vietnam
Le Caodaïsme (Cao-Dai en vietnamien signifie « être suprême »), religion syncrétiste qui n’existe qu’au Vietnam, mélange le Confucianisme, le Bouddhisme, le Taoïsme, le Christianisme, l’Islam et d’autres religions en enseignant que toutes les fois représentent des manifestations d’une « même vérité ». Cette religion a été établie en 1926 par un fonctionnaire vietnamien. Dans les années 1940 il était devenu une force puissante possédant sa propre armée privée. Il a appuyé l’occupation japonaise et parfois le régime proaméricain du Vietnam du Sud. Il a été, donc, réprimé par les communistes après 1975. Aujourd’hui, comme le gouvernement est moins sévère envers des religions, le caodaïsme a repris la faveur, quoiqu’il soit strictement contrôlé. En février, des responsables du comité des affaires religieuses du gouvernement ont rejoint 200 mille caodaïstes dans un rituel effectué au grande temple caodaïste, à environ 100 km de Saigon.
Le message œcuménique du caodaïsme s’accorde bien avec la politique extérieure de « chercher des amis partout » du Vietnam. Plus globalement, la foi reflète un trait fondamentalement vietnamien : chercher des modèles et puis mêler les meilleurs aspects d’un certain nombre d’entre eux dans quelque chose d’uniquement commode pour le pays.
Cela peut arriver à un pays qui a été occupé et influencé par tant de puissances étrangères. Le système juridique vietnamien se base essentiellement sur les principes napoléoniens mais avec de petits morceaux adaptés des modèles chinois et soviétiques. Lorsque le Vietnam était sous l’aile de l’Union soviétique pendant la guerre froide, il a calqué son économie sur le modèle collectiviste, ce qui a entraîné des conséquences désastreuses. Ensuite, il a émulé le socialisme de marché de Deng Xiaoping. Plus récemment, il a greffé des éléments des modèles de la croissance anti-pauvreté initiés par la Banque Mondiale et par des agences onusiennes. Le pays a également copié les rudiments d’un état de bien-être pratiqué en Europe.
Il est tentant de voir le Vietnam comme étant une mini Chine car tous les deux pays sont dirigés par des communistes ardemment capitalistes, mais il y a des différences. Un diplomate étranger qui servait à Pékin dit que « tout est plus modéré ici qu’en Chine ». Le Vietnam est un peu moins sévère envers des dissidents que la Chine et son capitalisme est moins sauvage. Ses services de la santé et de l’éducation se sont adaptés avec plus de succès à la transition à une économie de marché. Bien que la presse au Vietnam, comme en Chine, soit strictement contrôlée, les nombres croissants d’internautes au Vietnam ont l’accès à la plupart des sites web étrangers. Il n’y a pas un équivalent vietnamien pour le Grand Pare-feu de Chine.
La Chine est dirigée de haut en bas et un homme est clairement le leader suprême- Hu Jintao, qui est à la fois chef du parti communiste et président de l’Etat, tandis que le Vietnam maintient un leadership consensuel. Son triumvirat comprenant le président, le chef du parti et le premier ministre doit aboutir aux accommodations avec une assemblée nationale qui est de plus en plus indépendante et avec une foule d’autres forces, ainsi qu’éviter de fâcher de nombreux héros survivants des guerres d’indépendance du pays. Le leadership de Chine peut s’ingérer dans des projets des travaux publics quelles que soient les conséquences. Par contraste, le processus décisionnel au Vietnam peut sembler terriblement lent mais aussi plus équitable.
La Chine a strictement appliqué la politique de l’enfant unique ; le Vietnam a eu la politique de deux enfants qui a été suivie sans conviction. La population de Chine a déjà vieilli alors que les personnes du baby-boom post-guerre au Vietnam sont en train d’entrer dans leur apogée et que la croissance économique rapide a donné des emplois à eux tous. Tom Tobin, chef de HSBC au Vietnam note que dans une ou deux décennies, le moment où la plupart du reste du monde vieillira rapidement, les personnes du baby-boom au Vietnam seront dans la phase la plus productive de leurs carrières.
La Chine demeure le modèle le plus évident pour la combinaison entre des réformes de marché et l’idéologie communiste, bien que la majorité des Vietnamiens préféreraient ne pas admettre qu’ils ont calqué leur système sur le modèle de leur ancien ennemi. Certes, le parti dirigeant du Vietnam compte également sur Singapour, un pays riche qui est nominalement une démocratie de marché libéral mais, dans la pratique, un état à parti unique dont le gouvernement contrôle les secteurs pivots de l’économie. Par exemple, le Vietnam a créé une copie carbone de Temasek, une agence d’investissement singapourienne, pour garder ses participations dans les sociétés qui sont en partie privatisées .
Evidemment, le Vietnam est trop gros et trop décentralisé pour pouvoir se calquer sur le petit Singapour. Cependant le parti communiste du Vietnam espère jouer le même tour que celui du Parti d’Action du Peuple (PAP) de Singapour en convainquant les électeurs d’accepter sa direction continue comme le prix pour la prospérité. Comme le PAP, les communistes vietnamiens cherchent à recruter des ambitieux universitaires ainsi que des penseurs naissants dans leur petit groupe à un stade précoce.
Notant que l’enseignement supérieur et l’innovation scientifique sont clés à la richesse pour le Japon, la Corée du Sud et Taiwan, le Vietnam courtise des sociétés de haute technologie étrangères et invite des pays riches à ouvrir des universités et des installations de formation sur son territoire. L’Institut Royal de la Technologie de Melbourne a déjà ouvert ses campus ultramodernes à Ho Chi Minh ville et à Hanoi. Une université allemande et plusieurs collèges coréens ont déjà été planifiés. Entre temps, des familles vietnamiennes, de celle du premier ministre vers le bas, envoient actuellement leurs enfants à l’étranger pour faire leurs études.
Alors, quelle forme l’économie syncrétiste du Vietnam va-t-elle prendre ? Comme le pays cherche à construire des sociétés nationales fortes, il n’est pas encore sûr s’il va se modeler sur le keiretsu japonais, le chaebol coréen ou les compagnies anglo-saxonnes qui se concentrent sur leurs affaires centrales. Peut-être se débrouille-t-il pour prendre les meilleurs morceaux de chaque modèle. Toutefois, Tonly Salzman, homme d’affaires américain au Vietnam, s’inquiète du danger du « col qui ne va pas avec les manchettes ».
***
Bản gốc tiếng Anh :
VIETNAM
A bit of everything
Apr 24th 2008
From The Economist print edition
Vietnam's quest for role models
A BELL chimes at noon in the pastel-coloured Cao Dai Grand Temple, about 100km (63 miles) from Ho Chi Minh City, and hundreds of worshippers in coloured robes and a variety of headgear file in. They sit cross-legged among pink columns with carvings of gaudy green-and-white dragons. All around them is their religion's symbol, the all-seeing eye. The place looks like a cross between a Chinese temple, a mosque and a Catholic church, with a touch of the Wizard of Oz's Emerald City.
Cao Dai, Vietnam's syncretistic home-grown religion, mixes Buddhism, Taoism, Christianity, Islam and other religions, teaching that all faiths are manifestations of “one same truth”. The religion was founded in 1926 by Ngo Van Chieu, a government official. By the 1940s it had become a powerful force, maintaining its own private army. It supported the Japanese occupation and at times the pro-American South Vietnamese regime, so after 1975 it was repressed by the Communists. Now, as the government eases up on religion, Cao Dai is back in favour, albeit strictly controlled. In February members of the government committee for religious affairs joined 200,000 Caodaists for a grand ritual at the temple.
Cao Dai's sunny, ecumenical message chimes well with Vietnam's foreign policy of seeking “friends everywhere”. More broadly, the faith reflects a quintessentially Vietnamese trait: casting around for role models, then trying to meld the best aspects of several of them into something uniquely suited to Vietnam.
That may come naturally to a country that has been occupied and influenced by so many foreign powers. The Vietnamese legal system is based mainly on Napoleonic principles but with bits adapted from the Chinese and Soviet models. When Vietnam was under the Soviet Union's wing during the cold war, it copied its collectivist economic model, with disastrous results. Next, it emulated Deng Xiaoping's market socialism. More recently it has grafted on elements of the World Bank's and UN agencies' anti-poverty growth models and, increasingly, the rudiments of a welfare state along European lines.
China lite
It is tempting to view Vietnam as a mini-China, since both countries are run by ardently capitalist communists, but there are differences. A foreign diplomat in Hanoi who used to serve in Beijing says that “everything here is more moderate than in China.” Vietnam is a bit less harsh with dissidents than China, and its capitalism too is less red in tooth and claw. Its health and education services have adapted more successfully to the transition to a market economy. Its press is strictly controlled, as in China, but the growing numbers of internet surfers have free access to most foreign news websites: there is no Vietnamese equivalent of the Great Firewall of China.
Whereas China is led from the top down and one man is clearly the paramount leader—Hu Jintao, who is both the head of the Communist Party and the state president—Vietnam has a consensual leadership. Its triumvirate of president, party boss and prime minister must reach accommodations with an increasingly independent national assembly and a host of other forces, and avoid upsetting the many surviving heroes of Vietnam's independence wars. China's leadership can ram through public-works projects regardless of the consequences. In contrast, the decision-making process in Vietnam can seem painfully slow—but also more equitable.
China enforced a one-child policy harshly; Vietnam had a two-child policy, pursued half-heartedly. Whereas China is already greying, Vietnam's post-war baby-boomers are now coming into their prime, and rapid economic growth has been providing jobs for them all. HSBC's chief in Vietnam, Tom Tobin, notes that in a decade or two, when much of the rest of the world will be ageing rapidly, Vietnam's boomers will still be at the most productive phase of their careers.
China remains the most obvious role model for combining market reforms with communist ideology, though most Vietnamese would be loth to admit to copying their ancient foe. But Vietnam's ruling party also looks to rich Singapore, nominally a free-market democracy but in practice a one-party state whose government still controls the commanding heights of the economy. For example, Vietnam has created a carbon copy of Temasek, a Singaporean investment agency, to retain its stakes in part-privatised firms.
Clearly Vietnam is too big and too decentralised to be able to copy tiny Singapore, but its Communist Party hopes to pull off the same trick as Singapore's People's Action Party (PAP), persuading the voters to accept its continued rule as the price of prosperity. Like the PAP, the Vietnamese Communists seek to recruit academic high-flyers and budding thinkers to their inner circle at an early stage.
Noting that higher education and scientific innovation were the keys to riches for Japan, South Korea and Taiwan, Vietnam is wooing foreign high-tech firms and inviting rich countries to set up universities and training facilities on its soil. An Australian university, the Royal Melbourne Institute of Technology, has already opened state-of-the-art campuses in Ho Chi Minh City and Hanoi. A German university and several South Korean technical colleges are planned. Meanwhile families from the prime minister's downwards are sending their youngsters to study abroad.
So what shape will Vietnam's syncretistic economy take? As the country seeks to build strong national companies, it is as yet unsure whether to model them on Japanese keiretsu, Korean chaebol or Anglo-Saxon companies that focus on their core business. Maybe it will manage to take the best bits of each model. But Tony Salzman, an American businessman in Vietnam, worries about the danger of “the collars not matching the cuffs”.
Wednesday, 27 February 2008
Nghề hấp dẫn giới trẻ (February 28, 2008)

Công chức ngoại giao: Hấp dẫn giới trẻ
Gia nhập WTO, trở thành thành viên không thường trực HĐBA Liên hợp quốc... hình ảnh Việt Nam càng trở nên nổi bật trong mắt bạn bè quốc tế và có nhiều bạn trẻ lựa chọn ngoại giao làm sự nghiệp.
Lễ trao bằng cho các sinh viên - Ảnh minh họa |
Ông Phạm Sanh Châu, Vụ trưởng Vụ Văn hóa - UNESCO Bộ Ngoại giao có niềm tin mãnh liệt vào đội ngũ công chức ngoại giao trẻ tuổi thuộc thế hệ 7X, 8X.
"Họ rất giỏi, năng động và tràn đầy nhiệt huyết với công việc. Tôi hoàn toàn tin tưởng vào các cán bộ trẻ hiện nay", ông nhận xét.
30% - 50% là người trẻ
Tốt nghiệp Đại học Ngoại thương, anh Phạm Hùng Tâm nộp hồ sơ dự thi tuyển công chức Bộ Ngoại giao. Thi đỗ, anh được phân về Vụ Châu Á II và công tác ở đó đến nay đã được 14 năm.
Anh Tâm đánh giá: "Các cán bộ trẻ được đào tạo bài bản hơn, kiến thức cập nhật hơn và trình độ ngoại ngữ cũng cao hơn so với lớp cán bộ kỳ cựu. Họ tiếp thu, thích ứng nhanh với công việc và rất đoàn kết, giúp đỡ nhau cùng tiến bộ. Làm việc với họ đã giúp tôi có những cách nghĩ mới, buộc tôi phải tự phấn đấu để theo kịp họ".
Hiện tỷ lệ cán bộ trẻ từ 40 tuổi trở xuống đang ngày càng tăng trong cơ cấu cán bộ của Bộ Ngoại giao. Vụ Châu Mỹ có 40 cán bộ công chức thì hơn 1/3 trong số đó là những cán bộ trẻ.
Ở Cục Lãnh sự, tỷ lệ cán bộ trẻ cũng là hơn 1/3 và hứa hẹn sẽ tiếp tục tăng trong những năm tới. Vụ Châu Á II có trên dưới 50 cán bộ thì hơn 50% trong số đó là những người trẻ.
Cũng như ở các ngành nghề khác trong xã hội, những cán bộ ngoại giao trẻ mới vào nghề không tránh khỏi bỡ ngỡ khi làm quen với công việc. Những chuyên viên tốt nghiệp Học viện Quan hệ quốc tế có lợi thế là được đào tạo cơ bản về quan hệ quốc tế và nghiệp vụ ngoại giao nên hoà nhập nhanh hơn vào môi trường đối ngoại cấp nhà nước.
Tuy nhiên, công tác ngoại giao đa dạng, phong phú với rất nhiều công việc không tên và có tên nên để đảm bảo hiệu quả hoạt động, ngay sau khi kết thúc kỳ thi tuyển công chức, Bộ Ngoại giao tổ chức một khoá bồi dưỡng nghiệp vụ ngắn hạn kéo dài 2 tháng dành cho các thí sinh trúng tuyển.
Nhiều cơ hội trưởng thành
Trải qua một thời gian công tác, nhiều cán bộ ngoại giao trẻ đã tìm thấy cho mình sự hứng thú đối với công việc và một môi trường phát huy những kiến thức đã được học. Họ lựa chọn con đường ngoại giao trước hết xuất phát từ sự đam mê và cảm thấy công việc phù hợp với mình.
Anh Nguyễn Đức Tiến, đỗ kỳ thi tuyển công chức Bộ Ngoại giao 2006 và đang công tác tại Ban Nghiên cứu tâm sự:
"Tôi chọn ngoại giao vì cảm thấy mình phù hợp với ngành này. Môi trường nghiên cứu giúp tôi phát huy tối đa những kiến thức và khả năng của bản thân. Nói chung công tác ngoại giao khó khăn và vất vả, đòi hỏi có sự đam mê. Nếu chỉ để biết thôi thì tốt nhất đừng nên vào ngành ngoại giao làm gì".
Phạm Thùy Trang đã đỗ kỳ thi tuyển công chức Bộ Ngoại giao năm 2006 và hiện đang là chuyên viên Vụ Châu Mỹ. Sau gần một năm làm việc, Trang cho biết công việc hiện tại của cô khá tốt, gần đúng như những gì đã tưởng tưởng khi còn là sinh viên Học viện Quan hệ quốc tế.
"Làm việc ở đây, tôi có điều kiện phát huy nhiều nhất những gì mình đã được học trong trường", Trang bộc bạch.
Cùng đỗ kỳ thi tuyển công chức năm 2006 với Phạm Thùy Trang còn có Nguyễn Thị Thu Thủy. Cũng giống như Trang, Thủy khá hài lòng với công việc của một chuyên viên Vụ Châu Á II.
Thủy cho biết so với nhiều cơ quan nhà nước khác, môi trường làm việc trong Bộ Ngoại giao khá năng động, có tính cạnh tranh cao nhưng không quá căng thẳng.
Sau gần một năm làm việc, Thủy đã thu nhận được khá nhiều kiến thức cũng như kinh nghiệm cần thiết để trở thành một nhà ngoại giao trong tương lai.
Nguyễn Tiến Cường cũng đỗ kỳ thi tuyển công chức cùng đợt với Thuỷ và Trang và đang công tác tại Học viện Quan hệ quốc tế. Cường cho biết anh rất thích công việc hiện nay vì được làm đúng ngành đúng nghề.
Anh cũng không giấu mơ ước được theo đuổi nghiệp ngoại giao: "Được tham gia các hoạt động đối ngoại đã giúp tôi trưởng thành lên rất nhiều. Tôi mong muốn sẽ tiếp tục được cống hiến cho ngành ngoại giao".
Còn anh Tâm tâm sự: "Kể từ khi trở thành công chức ngoại giao, tôi đã thu nhận được nhiều kiến thức về nghiệp vụ, học được phương pháp phân tích vấn đề, trình độ ngoại ngữ ngày càng nâng cao và đi đây đi đó. Sau 14 năm gắn bó, tôi càng yêu công việc của mình".
Theo Minh Dương
Lao động
Friday, 15 February 2008
Propaganda (February 16, 2008)

Propaganda has been defined as "a message designed to influence - aimed at persuading a group or individual to behave or think in a certain way". The era of total war, with whole populations mobilised for action, has seen propaganda become as important as any other weapon. The public's appetite for information is fed by increasingly pervasive and sophisticated news media - but at the same time governments have seen that appetite as something to be controlled or guided, to try to ensure that public opinion marches in step with the aims of those who are providing the information.
Since the mid-19th Century, an ever wider range of media has been used to deliver both 'news' and 'propaganda' messages. New technologies such as photography, film, sound amplification and radio - and later television and the internet - have quickly been adopted by both the official and the unofficial propagandist. "Old" technologies also remain in use alongside new comers. In the 21st Century, information and propaganda are still disseminated by means of public speeches by well-known figures, through newspapers, and by means of the poster and the leaflet - and the tradition of the war artist survives alongside that of the war correspondent.
Propaganda campaigns will try to shape attitudes in a number of ways. One popular device is the use of caricature or comedy. This serves both to lift the spirits of its own side ('laughter is the best medicine') and to make the enemy seem ridiculous, and therefore less threatening. A careful balance has to be struck in such campaigns, however - enemies must not seem laughable to the point where the audience stops taking them seriously.
Avoiding any risk of not taking the enemy seriously are campaigns which set out to dehumanise the foe, to portray them as evil or criminal, enemies who must be feared or loathed, beasts who must be crushed. Even this kind of campaign can backfire, however - when one piece of negative propaganda is discredited, then similar stories may not be believed, even when they are true. It is widely thought that an element in people's reluctance to give credence to early reports about the Holocaust was their memory of being led to believe exaggerated or unfounded allegations of 'Hun' atrocities in the First World War.
The will to fight can also be reinforced by positive campaigns - those designed to explain what is good about one particular position, which can be much more than just 'our' opposition to 'them'. Reasons given for 'Why We Fight' can include explanations of the need to resist aggression and to defend the rights of the oppressed, but they tend also to dwell on the values, the culture, the very land of the nation at war - and of its allies. Such propaganda can often suggest that everything is perfect in the mother- or fatherland but more sophisticated campaigns will also appropriate the war to domestic causes. For the British, the Second World War became not only a war to defeat fascism and aggression, but also a war fought to help build a 'better' society within the United Kingdom.
Besides visions of the post-war world, inspiration can be offered to the targets of propaganda by building up heroes and the development of myths. Totalitarian regimes make icons of their leaders - Mussolini, Hitler and Stalin all featured in such roles in the mid-20th Century. But an inspirational example, a tragic martyr, or a popular figurehead can all provide a role model or focus for the attentions of the general public in all kinds of societies - figures such as Lawrence of Arabia, Edith Cavell, or 'The Red Baron' in the First World War, and Orde Wingate, Churchill and Montgomery in the Second have all been used in this way in propaganda. The faintly supernatural aura that attached to the hero-figure can be found still more strongly in the promotion of myths, which can be specific or generalised ('Russians with snow on their boots' or the 'Spirit of the Blitz'), positive or negative (the 'Angels of Mons' and the 'Protocols of the Elders of Zion').
As well as addressing the domestic audience, propaganda is aimed at allies in other nations (for example, the Commonwealth and Dominions in the case of Britain, its Axis partners in the case of Nazi Germany) to emphasise the bond of commitment, sacrifice and achievement. The enemy themselves may be targeted by what is commonly known as 'black propaganda' using such means as leaflet drops and radio broadcasts to lower morale and encourage surrender. Another important audience is the population of neutral states, whose sympathy and support must be encouraged, and who must be persuaded not to accept the enemy's view of events. In this sense, one of the most important targets for British propaganda both before April 1917 in the First World War and before December 7th 1941 in the Second World War, was the United States.
'Propaganda' is commonly used as a purely negative term - indeed, some people will always maintain that only the enemy issued 'propaganda' while our side gives out 'truth' and 'information'. The term is, however, quite neutral in origin. Its first use is commonly attributed to the creation by Pope Gregory XV of a 'Sacred Congregation de Propaganda Fide (for the propagation of the faith)' in 1622. The Museum's collections contain many examples of propaganda whose purpose is entirely benign - campaigns to improve dietary or health awareness, for example, or working for better living conditions.
In spite of the qualification just made, 'propaganda' remains a term most usually linked to the manipulation and distortion of truth. Its close ally, particularly in times of war and the fear of war, or of political repression, is censorship - the suppression of unwelcome news, the control of militarily sensitive information, and the containment of potentially unsettling opinions.
Source: http://www.iwmcollections.org.uk/truth/essay.asp#top
Wednesday, 13 February 2008
Tin ở hoa hồng

Tin ở hoa hồng
Sáng tác: Đỗ Hồng Quân- Trình bày: NSND Lê Dung (1998)
Lá đổ chiều nay trời trở rét
Những bông hồng rụng cánh vội ra đi
Em yêu quý xin em đừng buồn nhé
Hoa tàn rồi nhưng hương chẳng hề đi.
*
Hãy nói hoa ơi, hãy đến người ơi
Và hãy cho tôi một niềm vui,
Một niềm tin rằng hoa hồng không chết
Vì ta tin đời bao điều tốt đẹp
Như tin ở thời gian
Tin ở chính hoa hồng.
*
Và hãy tin rằng mùa xuân sẽ đến
Lạnh giá qua rồi mùa xuân én bay
Ngàn hoa hồng bừng trên cỏ biếc
Như tình yêu sức sống tràn đầy.
***
Vẫn tin ở Hoa hồng, nhưng...Valentine cứ nghĩ về ... "Chủ nghĩa đế quốc văn hóa" =))
Khoảng mươi năm trở lại đây, ngày lễ Valentine rất được thanh niên Việt Nam quan tâm và quan tâm một cách khá ồn ào! Hồi trước có mấy ai biêt Valentine là gì đâu. Valentine có phải là một kiểu thời trang, một phong trào? Người khác kỷ niệm mà mình không thì có phải là mình không sành điệu? Hay tại vì dân mình có tính "phú quý sinh lễ nghĩa", đã đến lúc vật chất bắt đầu rủng rỉnh thì chỉ cần có cái cớ gì đó là có thể hội hè, tiệc tùng! Hay đó là kết quả của làn sóng toàn cầu hóa, Âu hóa, Tây hóa, Cơ đốc giáo hóa, coca cola hóa, Mắc-đô hóa, mà ở đó gió Tây thổi bạt gió Đông? Hay là có một cuộc chinh phục bằng văn hóa, xâm lăng văn hóa, thậm chí xâm chiếm thuộc địa bằng văn hóa của "chủ nghĩa đế quốc văn hóa" ???!!!...
Dù sao ngày Valentine cũng là ngày vui của nhiều người. Việc nó ngày càng phổ biến ở Việt Nam và châu Á cũng chứng tỏ phần nào một Việt Nam và châu Á cởi mở, luôn có sự gạn đục khơi trong trong tiếp biến văn hóa. Hy vọng đây sẽ là dịp để tình yêu (không chỉ tình yêu đôi lứa) được nảy nở, đơm hoa, kết trái, để người người quan tâm tới nhau nhiều hơn, chứ đừng là dịp để khoe mẽ, phù hoa, đua đòi, đú đởn khiến có kẻ thì phởn phơ Va-lung-tung, người thì ngậm ngùi, lặng lẽ Va-lăn-tăn :))
***
L’impérialisme culturel
- Philip M. Taylor (1)
TMH dịch từ Tiếng Anh
Il y dix ans il y a eu une explosion de publications au sujet de l’impérialisme culturel, accusant les pouvoirs occidentaux, surtout les Etats-Unis et la Grande Bretagne, de maintenir un déséquilibre dans la circulation de l’information des pays industrialisés au tiers-monde. La dominance occidentale vis-à-vis des cultures indigènes représentait une forme du « coca colonialisme » désigné pour garder le pouvoir occidental, pour empêcher le développement, pour exploiter des ressources, et globalement pour « McDominer » le monde.
Néanmoins, les accusations ont souvent confondu les stratégies commerciales des corporations multinationales occidentales avec les politiques étrangères des gouvernements occidentaux. Par exemple, Hollywood est perçu comme ayant d’une manière ou d’une autre fait partie d’une stratégie du gouvernement américain visant à vendre le mode de vie américain aux cultures étrangères locales en supplantant des valeurs locales. L’exportation des émissions de télévision américaine a aussi prétendument fait partie de cette « conspiration ». Cette circulation de l’information a été présumée comme étant unidirectionnelle et comme n’ayant que des impacts négatifs. La population local l’a reçue avec réticence. Et le problème s’est aggravé quand l’UNESCO a pris la cause, en particulier au cours de la période des années 1980 quand les Etats-Unis et la Grande Bretagne ont quitté l’organisation.
Ce phénomène curieux a été encouragé par les érudits Marxistes. Mais une telle perception de l’impérialisme culturel a semblé dissimuler la nature multiethnique des restaurants à Londres ou à Washington, le nombre des voitures japonaises conduites à en Occident, la popularité des films et des programmes de télévision locaux. De la même façon, ce jugement a ignoré la préoccupation de plusieurs diplomates américains qui se sont inquiétés de l’image des Etats-Unis que fournissent les producteurs hollywoodiens à propos des rues de New York où règnent les criminels, les agresseurs et les drogués. Le mouvement anti-mondialisation récent a également évoqué beaucoup des vieux thèmes de l’impérialisme culturel.
Encore une fois, le problème est que la mentalité contre le prétendu impérialisme culturel minimise volontairement l’importance de la diplomatie culturelle menée par la plupart des pays développés. Les idées derrière la conduite de diplomatie culturelle ne vont pas avec la thèse de conspiration parce que la diplomatie concerne le développement de la compréhension mutuelle. Il y a des preuves solides que les gouvernements occidentaux dépensent de l’argent de leurs contribuables pour promouvoir leurs cultures nationales à l’étranger à travers des organisations telles que le British Council et l’Alliance Française. Mais l’idée est que les échanges culturels bénéficieront des relations internationales. Peut-être peut-on argumenter que cela constitue une forme de propagande internationale au nom des systèmes des valeurs des pays qui le mènent. Mais si cette propagande vise à informer, éduquer et divertir le peuple local dans l’idée qu’elle entraînera la meilleure compréhension mutuelle, on pourra bien soutenir que c’est la propagande au nom de la paix.
L’angoisse aux Etats-Unis dans le sillage du 11 septembre quant à la raison pour laquelle « les Etats-Unis sont tellement détestés » suggérerait effectivement un échec de la part de la diplomatie culturelle américaine. Maintenant, les Américains font des efforts considérables, quoique tardifs, pour convaincre la communauté internationale que leur pays est « une force du bien dans le monde ». Le mur auquel ils font face a été construit en partie pendant la Guerre Froide pendant laquelle les accusations de l’impérialisme américain, y compris l’impérialisme culturel, a pris racine dans nombre de pays en voie de développement. En tant que l’un des alliés les plus proches des Etats-Unis, la Grande Bretagne a un rôle significatif à jouer pour combler ce que Tony Blair appelle « le fossé de malentendu ». Il prendra beaucoup plus de diplomatie culturelle dans beaucoup d’années à venir dans la guerre actuelle contre le terrorisme international pour que ce mur soit cassé de la même manière que l’effondrement du mur de Berlin en 1989.
[1] Philip M. Taylor est Prof des Communications Internationales à l’Université de Leeds, Le Royaume Uni. Il a été le premier historien autorisé d’accéder aux archives du British Council.
Wednesday, 30 January 2008
Sốc văn hóa: xuôi và ngược (January 31, 2008)
Một tổng kết thú vị đối với những đã từng, đang, hoặc sẽ sống, làm việc, học tập ở nước ngoài hoặc từ nước ngoài trở về nước.
(adapted from the English original of Culture shock in Wikipedia by TMH)
Le choc culturel
Le terme choc culturel est utilisé pour décrire l’anxiété, la surprise, la désorientation, le déroutement, etc., sentiments ressentis lors d’un vécu dans un environnement social ou culturel entièrement différent, comme dans un pays étranger. Il se produit des difficultés auxquelles l’on fait face en assimilant une nouvelle culture, situation dans laquelle on a du mal à savoir ce qui est approprié et ce qui ne l’est pas. Ceci se combine souvent à l’écoeurement moral ou esthétique devant certains aspects de la culture nouvelle ou différente.
Ce terme a paru pour la première fois en 1954 grâce à Kalvero Oberg. D’autres chercheurs qui ont ultérieurement travaillé sur le choc culturel inclurent Michael Winkelman. Le choc culturel fait l’objet d’un domaine de recherche dans la communication interculturelle. Récemment, certains chercheurs revendiquent que le choc culturel a justement de nombreux effets positifs, tels que l’augmentation de l’efficacité de soi et de la motivation de soi, sur les séjournants interculturels.
Le choc culturel se manifeste de différentes manières. Certains symptômes comprennent des changements dans le mode de régime et de sommeil, le besoin de passer des appels téléphoniques vers le pays natal plus souvent que d’habitude, la tendance à éviter les gens de la culture hôte, l’anxiété dans des situations publiques, et une hostilité envers le nouvel environnement.
D’autres symptômes sont l’inquiétude excessive de l’hygiène et le sentiment que ce qui est nouveau et étrange est « sale ». Cela peut concerner l’eau potable, des aliments, la vaisselle et la literie ; la peur du contact physique avec des serveurs, des gardiens ou des femmes de ménage ; le sentiment d’impuissance et de vulnérabilité et le désir de compter sur les résidents à long terme de sa propre nationalité ; l’irritation par les retards et d’autres petites frustrations en proportion à leurs raisons ; le retard et le refus retentissant d’apprendre la langue du pays d’accueil ; la crainte excessive d’être trompé, d’être volé ou d’être blessé ; le souci exagéré des douleurs mineures, même les irruptions cutanées ( !) ; et finalement le grand désir de retourner chez lui, de visiter ses proches, et, globalement, la nostalgie des environs familiers.
Le choc culturel grave se compose souvent de phases distinctes bien que tout le monde ne vive pas toutes ces phases et que tous les individus ne soient pas dans une nouvelle culture assez longuement pour passer par toutes ces phases :
- La phase de « lune de miel » au cours de laquelle les différences entre la culture ancienne et nouvelle sont vues sous une lumière romantique, merveilleuse et nouvelle. Par exemple, en se déplaçant dans un nouveau pays, un individu peut adorer de nouvelles nourritures, le rythme de vie, les habitudes des gens, les bâtiments, etc.
- La phase de négociation pendant laquelle les différences mineures entre la culture ancienne et nouvelle sont résolues après quelques jours, quelques semaines ou quelques mois. On peut avoir très envie des plats préparés de telle façon que l’on trouve dans son pays originaire. On peut trouver le pas de vie trop vite ou trop lent. On perçois peut-être que les habitudes de la population locale soient gênantes, etc.
- La phase de « tout est bon » durant laquelle on se rend accoutumé aux différences de la nouvelle culture et a déjà développé des routines. A un tel point, on ne réagit plus à la nouvelle culture ni positivement ni négativement, simplement parce que cette culture ne lui semble plus nouvelle. On devient de nouveau préoccupé par la vie basique comme on le faisait dans sa culture originaire.
- Le choc culturel inverse, phénomène dans lequel le retour d’une personne à sa culture natale après être devenue habituée à celle du pays d’accueil peut susciter les mêmes effets que ceux décrits au dessus. Pourtant ces effets peuvent durer plus ou moins longuement par rapport à ceux du choc initial.
A chaque individu son degré auquel le choc culturel peut influer sur lui. Dans certains cas, c’est impossible d’affronter le choc culturel. Bien qu’il ne soit pas commun, il y a ceux qui peuvent à peine survivre à l’étranger. D’autres cessent de s’assimiler à une nouvelle culture et retournent à leur propre culture. Au contraire, certains deviennent tellement magnétisés par la culture étrangère qu’ils estiment qu’ils n’ont pas d’autre choix que s'y installer définitivement !