Showing posts with label ýkiến. Show all posts
Showing posts with label ýkiến. Show all posts

Wednesday, 8 April 2009

Cố đấm liệu có ăn xôi? (April 09, 2009)

Cuộc chơi tốn kém của Vịnh Hạ Long
16:56' 08/04/2009 (GMT+7)

img- Chúng ta sẽ được gì nếu Vịnh Hạ Long được bầu chọn là một trong bảy kỳ quan thiên nhiên thế giới khi bản thân nó đã hai lần được UNESCO công nhận là di sản thế giới mà cuộc đua hiện tại lại quá tốn kém và không biết sẽ đi đến đâu?

>> Ai đảm bảo Vịnh Hạ Long không bị loại lần nữa?
>> Gỡ rối cho Vịnh Hạ Long bằng cách nào?

Nhân việc Đại sứ quán Hàn Quốc vừa khai trương gian quảng bá Vịnh Hạ Long lần thứ hai tại khách sạn Daewoo Hà Nội dưới sự chủ trì của Bộ VH-TT-DL, VietNamNet đã phỏng vấn ông Trần Chiến Thắng, Thứ trưởng Bộ VH-TT-DL kiêm Tổng cục trưởng Tổng cục Du lịch quanh diễn biến mới của cuộc vận động bầu chọn này.

Rất nhiều doanh nghiệp đã bỏ không ít tiền để tài trợ cho cuộc vận động Vịnh Hạ Long trở thành kỳ quan thiên nhiên thế giới mới của new7wonders như: Tập đoàn điện lực VN, Tập đoàn dầu khí VN, Tổng công ty hàng không quốc gia VN, tập đoàn Kumho Asiana của Hàn Quốc.... Ngoài chi phí trang bị máy tính nối mạng ở các điểm bình chọn, các đơn vị đứng ra vận động bầu chọn cho Vịnh Hạ Long phải chi một số tiền không nhỏ cho việc quảng bá sự kiện. Sau sự kiện Vịnh Hạ Long bị loại khỏi cuộc bầu chọn danh sách bầu chọn các kỳ quan thiên nhiên của thế giới ngày 14/4/2008, new7wonders đã ra quy định rằng các đơn vị muốn quảng bá bầu chọn cho vịnh Hạ Long phải trả chi phí từ 2.500-5.000 USD/tháng cho tổ chức trên. Theo thống kê của Alexa, địa chỉ uy tín chuyên xếp hạng các website trên thế giới thì new7wonders hiện tại đứng thứ 15.703 (tính đến 15h30 ngày 8/4) và chỉ xếp thứ 7.407 về lượng truy cập trong số các trang web tại Việt Nam.

- Nhiều ý kiến cho rằng cuộc vận động bầu chọn cho Vịnh Hạ Long trở thành di sản thiên nhiên của thế giới quá tốn kém mà không biết Vịnh Hạ Long có lọt được vào top 21 kỳ quan được đề cử và sẽ công bố vào ngày 1/7 sắp tới không. Ông nghĩ gì về nhận xét này?

- Tôi cũng chưa biết là nó tốn kém đến mức nào nhưng việc mỗi người bỏ ra một phần thời gian rất nhỏ của mình để ngồi trước máy tính bầu chọn cho Vịnh Hạ Long thì không có gì tốn kém. Có một số người nói việc bầu chọn cho Vịnh Hạ Long tốn kém nhưng tôi không biết so với cái gì để nói là tốn kém. Việc tôn vinh một di sản của Việt Nam đối với thế giới thì có lẽ bao nhiêu cũng không đủ.

- Nhưng trên thực tế Vịnh Hạ Long đã được UNESCO công nhận là di sản thế giới tới hai lần. Lần này chúng ta đang vận động cũng cho địa danh ấy danh hiệu di sản thiên nhiên thế giới, nhưng do một tổ chức tư nhân đứng ra bầu chọn. Đây được cho là một việc làm không cần thiết, nhận xét đó theo ông có xác đáng?

- Tôi thấy lớp trẻ rất quan tâm đến kỷ lục Guinness do một ông chủ quán bia lập ra. Tôi không biết có nên so sánh việc new7wonders bầu chọn các kỳ quan thiên nhiên của thế giới với Guinness hay không, nhưng ít nhất có một người đứng ra khởi xướng và quảng bá cho địa danh của chúng ta, tôi nghĩ chúng ta không nên từ chối.

img
Ông Trần Chiến Thắng (giữa). Ảnh: Hạnh Phương
- Có thể ví việc Vịnh Hạ Long 2 lần được UNESCO công nhận là di sản thế giới như một cô gái đẹp đã đi thi và đã có danh ở tầm thế giới, giờ đây lại cố gắng đoạt danh hiệu trong một cuộc thi nhỏ, có thể ví như một cuộc thi "làng". Vậy có nên không?

- Mỗi cuộc chơi có một bản sắc riêng, cách thức riêng, cách tiếp cận riêng nên tôi không nghĩ cái này có thể so với cái khác. Cơ quan văn hoá khoa học đánh giá bằng những giá trị khoa học còn đây người ta chỉ chọn tính hấp dẫn. Anh có thể học rất giỏi nhưng không hấp dẫn. Anh có thể là tiến sĩ, giáo sư nhưng lại không đẹp trai. Anh có thể được chọn ở qui mô quốc gia nhưng ở làng có thể có người đẹp hơn mà họ không đi thi.

Cho nên, mỗi một cuộc chơi có một cách tiếp cận riêng. Và nếu nó mang lại lợi ích cho chúng ta ở tầm cỡ quốc gia là quảng bá hình ảnh cho đất nước mà chỉ có mỗi một việc ngồi vào máy tính là đã góp một hành động, một tiếng nói nhỏ tôn vinh cho địa danh của đất nước, thì nên làm.
img
Vị trí hiện tại của Vịnh Hạ Long (tính đến trưa ngày 8/4) trong top 77 địa danh được liệt kê trên trang new7wonders là 3.
- Ông có số liệu cụ thể nào về ảnh hưởng của cuộc vận động bầu chọn Vịnh Hạ Long mà chúng ta làm trong suốt thời gian dài vừa qua tới lượng khách du lịch đến với địa danh này?

- Tất cả số phiếu bầu chọn cho Vịnh Hạ Long không bao giờ được công bố và tỉnh Quảng Ninh đã thông báo chính thức rằng, kể từ khi có cuộc bầu chọn này khách quốc tế đến Vịnh Hạ Long rất đông và tăng đột biến. Số liệu cụ thể thì tôi chưa có, nhưng lượng khách tăng ít nhất 30%.

Ông có tin Vịnh Hạ Long sẽ lọt vào top 21 kỳ quan thiên nhiên có trong shortlist sẽ công bố ngày 1/7 tới trước khi chọn ra 7 cái tên cuối cùng?

- Tôi tin nếu tất cả chúng ta cùng bỏ phiếu. Bất cứ quốc gia nào cũng cố gắng vận động bầu chọn cho chính mình, tất nhiên!

  • Bích Hạnh (thực hiện)

Thursday, 2 April 2009

Trịnh Công Sơn và Chính trị (April 03, 2009)

Video minh họa : Cuối cùng cho một tình yêu. Nhạc của Trịnh Công Sơn, Thơ của Trịnh Cung, Khánh Ly hát trong Asia Video số 10 « Thơ & Nhạc »

Bài viết gây chấn động của Họa sỹ Trịnh Cung về Nhạc sỹ tài hoa Trịnh Công Sơn đăng trên Tạp chí Da Vàng ngày 29/3.2009 :

Đã 8 năm kể từ ngày mất của Trịnh Công Sơn, 01-4-2001. Đã có rất nhiều bài và sách viết về người nhạc sĩ tài hoa xuất chúng này. Tất cả đều chỉ nói về 2 mặt: tình yêu (con người, quê hương) và nghệ thuật ngôn từ trong ca khúc Trịnh Công Sơn, tuyệt nhiên không thấy ai đề cập đến vấn đề Trịnh Công Sơn có hay không tham vọng chính trị. Phải chăng như Hoàng Tá Thích, ông em rể của người nhạc sĩ “phản chiến” huyền thoại này đã minh định trong bài tựa cuốn sách Như Những Dòng Sông của mình nói về âm nhạc và tình người của ông anh rể Trịnh Công Sơn, do nhà Xuất Bản Văn Nghệ và Công Ty Văn Hoá Phương Nam ấn hành năm 2007: “…Anh không bao giờ đề cập đến chính trị, đơn giản vì anh không quan tâm đến chính trị”? Hay như nhận định của một người bạn không chỉ rất thân mà còn là một “đồng chí” (trong ý nghĩa cùng một tâm thức về chiến tranh VN) của Trịnh Công Sơn, hoạ sĩ Bửu Chỉ (đã mất) đã viết: “Trong dòng nhạc phản chiến của mình, TCS đã chẳng có một toan tính chính trị nào cả” (Trích bài viết: “Về Trịnh Công Sơn và Những Ca Khúc Phản Chiến Của Anh”, in trong Trịnh Công Sơn, Cuộc Đời, Âm Nhạc, Thơ, Hội Hoạ & Suy Tưởng do Nhà Xuất Bản Văn Hoá Sài Gòn ấn hành năm 2005)?

Sự thực có đúng như câu khẳng định chắc nịch ở trên của ông Hoàng Tá Thích và hoạ sĩ quá cố Bửu Chỉ? Chắc chắn là sai 100% rồi nếu như Trịnh Công Sơn không là tác giả của 3 tập nhạc phản chiến (Ca Khúc Da Vàng, Kinh Việt Nam và Ta Phải Thấy Mặt Trời), và cũng chưa từng tham gia vào Phong trào Đấu tranh Đô thị của Thanh niên Sinh viên Học sinh để chống Mỹ và chính quyền Sài Gòn mà chính cuốn sách của Hoàng Tá Thích và bài viết của Bửu Chỉ vừa nhắc đến ở trên đã có nhiều tiết lộ. Mặt khác, trong bài viết “Có Nghe Ra Điều Gì” Trịnh Công Sơn gửi cho bác sĩ Thân Trọng Minh tức nhà văn Lữ Kiều năm 1973 có đoạn như sau: “…Chưa bao giờ tôi có ý nghĩ tự đề nghị với mình một trách nhiệm quá lớn, nhưng khi đã lỡ nhận chịu những cảm tình nồng hậu từ đám đông, thì những tình cảm kia phải được đền bồi…”. Và trong thư TCS gửi cho Ngô Kha - người bạn cùng chí hướng chính trị và cũng là người em rể, đồng thời là lãnh tụ của Chiến đoàn Nguyễn Đại Thức này đã bị Công An Huế bắt (1972-1974) - chúng ta sẽ dễ nhận ra ý thức làm chính trị chống chế độ Sài Gòn của Trịnh Công Sơn. Nhất là trong đoạn Lê Khắc Cầm nói về mối quan hệ giữa TCS và tổ chức cơ sở thành uỷ Huế do Lê Khắc Cầm bí mật phụ trách trước 1975 như thế nào, thì không thể nói là TCS không có toan tính chính trị như nhận định của hoạ sĩ Bửu Chỉ (Xin xem thêm Thư TCS gửi Ngô Kha và đoạn trao đổi về lá thư này giữa Nguyễn Đắc Xuân và Lê Khắc Cầm trong phần tư liệu đính kèm bài).

Trước khi nêu thêm những dẫn cứ quan trọng hơn để chúng ta có cái nhìn rõ hơn về thái độ chính trị của TCS thời chiến tranh VN, và cũng nhằm cung cấp thêm tư liệu để làm rõ các mối quan hệ có tính dính líu vào hoạt động chính trị phản chiến thân Cộng của TCS, tác giả xin kể một kỷ niệm với Ngô Kha và vì sao Ngô Kha lấy tên cho lực lượng đấu tranh của mình là Chiến đoàn Nguyễn Đại Thức.

Vào năm 1971, tôi có mời Ngô Kha tới dự bữa cơm đầy năm Vương Hương, con đầu lòng của tôi tại nhà ở Phú Nhuận. Sau tàn tiệc, tôi đưa Ngô Kha ra về. Chúng tôi đi bô từ ngã tư Phú Nhuận về hướng cầu Kiệu, khi gần đến chân cầu, Ngô Kha nói với tôi: “Cậu vào chiến khu với mình đi, có người dẫn đường đang chờ”. Tôi không ngờ lại bị Ngô Kha đưa vào thế kẹt. Lúc này, tôi đang là Trung Úy biệt phái dạy tại Trường Cao Đẳng Mỹ Thuật Huế, vừa bị Nha Mỹ Thuật Học Vụ trả về lại Bộ Quốc Phòng vì được Mỹ cấp học bổng tu nghiệp mỹ thuật tại Trung Tâm Đông và Tây, Hawaii, Hoa Kỳ (Sau 1975 tôi mới biết ông Nguyễn Văn Quyện, kiến trúc sư, Giám đốc Nha Mỹ Thuật Học Vụ, người ký quyết định không cho tôi đi Mỹ và trả tôi lại quân đội theo đề nghị của hoạ sĩ Vĩnh Phối - Hiệu trưởng Trường CĐMT Huế, cả 2 đều là Việt cộng nằm vùng), và Ngô Kha đang là em rể của Trịnh Công Sơn, cũng mang cấp bậc thiếu uý Quân lực VNCH có tư tưởng phản chiến, nhưng tôi không biết gì về hoạt động ly khai của anh cho tới lúc này. Thật bất ngờ và căng thẳng, làm sao tôi có thể đi về phía bên kia chiến tuyến? Tôi không hề tham gia vào phong trào phản chiến, tôi chơi với Trịnh Công Sơn, Ngô Kha, Hoàng Phủ Ngọc Tường, Đinh Cường khi họ chưa là người chống lại chế độ Việt Nam Công Hoà. Ngay cả tại “túp lều cỏ” Tuyệt Tình Cốc ở Huế, nơi mà nhà văn Thế Uyên trong một bài viết của anh có tên “Cuộc Hành Trình Làm Người Việt Nam Qua Trịnh Công Sơn” đã tự bạch anh từng đến dự những cuộc họp bàn về đấu tranh chính trị do nhóm Hoàng Phủ Ngọc Tường, Trần Quang Long, Nguyễn Đắc Xuân và Trịnh Công Sơn đứng ra tổ chức, tôi cũng chưa bao giờ đặt chân đến đó và thậm chí không hề biết có những việc như thế. Đơn giản vì tôi rời Huế vào sống ở Sài Gòn sau khi tốt nghiệp Mỹ thuật năm 1962, mối quan hệ giữa tôi và họ chỉ là một tình bạn văn nghệ thuần tuý. Để thối thác lời đề nghị ghê gớm này của Ngô Kha, tôi dừng lại trong bóng đêm bên này cầu Kiệu và nói với anh:”Ông thấy con mình vừa đầy năm, bà xã còn quá trẻ và yếu đuối, làm sao mình bỏ nhà đi vào căn cứ với bạn được. Hơn nữa mình không đồng ý cách giết người của họ ở Huế hôm Tết Mậu Thân… thôi chúc bạn lên đường may mắn!”. Thế nhưng, sự việc sau đó lại đưa Ngô Kha đến một hoàn cảnh khác. Anh không đi vào rừng mà về Huế rồi bị bắt và chịu một cái chết bi thảm.

Về Nguyễn Đại Thức là ai mà Ngô Kha dùng đặt tên cho lực lượng đấu tranh của mình?

Theo Nguyễn Đắc Xuân, Nguyễn Đại Thức nguyên là một hạ sĩ quan quân lực VNCH ly khai đã bắn hụt tướng Huỳnh Văn Cao khi ông dùng trực thăng kiểm soát tình hình Phật giáo xuống đường ở Đà Nẵng và Huế, và đã bị lính Mỹ bắn hạ. Hành động và cái chết của Nguyễn Đại Thức đã đưa Ngô Kha đến sự chọn lựa Nguyễn Đại Thức là tên và biểu tượng cho nhóm quân nhân ly khai đấu tranh chống Mỹ Nguỵ do anh tổ chức. Sau đây là đoạn viết của Hoàng Phủ Ngọc Tường trong Căn Nhà Của Những Gã LangThang: “…Theo tin tức quân báo của Kha nhận từ đoạn Đà Nẵng, thì lực lượng thuỷ quân lục chiến của Kỳ sẽ chĩa mũi nhọn vào những người của phong trào mà họ cho là nguy hiểm, ngay từ lúc họ đặt chân đến Huế để tránh hậu hoạ. Ngô Kha cùng đi với chiến đoàn ly khai của anh sẽ kéo dài cuộc cầm cự trên đèo Hải Vân, để tạo điều kiện cho tôi thoát…”. Đối với cá nhân tôi, nhờ tiết lộ kinh khủng này của Hoàng Phủ Ngọc Tường, những năm gần đây, tôi mới biết mình đã từng bị Ngô Kha dùng tình bạn để đưa vào cái gọi là Chiến đoàn ly khai Nguyễn Đại Thức mà không biết khi anh rủ tôi đi vào cứ như đã nói ở trên. May mà tôi đã từ chối.

Với bao nhiêu sự việc gắn kết với nhau, hoà quyện, ăn khớp, như thế mà chúng ta vẫn còn hoài nghi, vẫn biện bạch đây chỉ là một thứ tình cảm hồn nhiên hay hoa mỹ hơn, đấy là ý thức về thân phận dân tộc, tiếng nói đòi hoà bình đậm tính nhân bản cho quê hương của một người nghệ sĩ tài hoa như TCS, thì chi tiết sau đây đã được Nguyễn Đắc Xuân tiết lộ và đã xác nhận lại với tác giả bài viết này như sau: “Vào đêm ngày 29-5-1966, trên đường Trần Bình Trọng-Đà Lạt, Trần Trọng Thức (nhà báo), Nguyễn Ngọc Lan (linh mục, đã chết), Nguyễn Đắc Xuân và Trịnh Công Sơn đã cùng nhau bàn về một giải pháp chính trị cho trí thức yêu nước và người đưa ra sự chọn lựa rất quyết đoán và hợp ý với 3 bạn đồng hành với mình: “Không có con đường nào khác cho anh em mình ngoài Mặt trận Giải Phóng Miền Nam!”.

Vậy là đã quá rõ về khuynh hướng chính trị của Trịnh Công Sơn!

Từ Chính Trị Phong Trào đến Chính Trị Cầm Quyền?

Vỡ mộng chính trị cầm quyền

Những ngày trước 30-4-75, Sài Gòn rơi vào tình trạng hỗn loạn. Người thân cộng thì hí hửng, người quốc gia thì lo âu và tìm đường bỏ nước. Mọi thứ sinh hoạt đều tê liệt, tôi nằm trong số người chịu trận, bế tắc, no way out. Trong thời điểm tinh thần sa sút này, tôi thường ghé qua nhà TCS để tìm một thông tin tốt lành vì anh có nhiều mối quan hệ, nhưng cũng không được gì vì TCS từ chối ra đi và cho biết sắp nhận chức Quốc Vụ Khanh đặc trách văn hoá trong chính phủ Dương Văn Minh lên thay Thiệu-Kỳ, em trai TCS là đại uý Trịnh Quang Hà sẽ được giao làm Cảnh sát Trưởng quận 2 (nay là quận 1). Thế là xong, TCS sẽ tham gia chính quyền được chuyển từ tay Nguyễn Văn Thiệu để thương lượng hoà bình với quân GP đang bao vây Sài Gòn và doạ sẽ tắm máu Sài Gòn nếu VNCH không buông súng.

Thế nhưng, TCS và người em không có tên trong thành phần chính phủ Dương Văn Minh khi các hệ thống thông tin quốc gia công bố ngày 27-4-75 và cũng không có tên kiến trúc sư Nguyễn Hữu Đống trong vai đệ nhất Phó Thủ Tướng - người bạn chính trị không lộ diện của TCS từ trước sự kiện Tết Mậu Thân 1968, một cố vấn chính trị, một công trình sư cho sự nghiệp chính trị của TCS, đã vận động cho TCS vào chính phủ này như là đại diện của phe Phật giáo. Và với kết quả này, nhà hoạt đầu chính trị trẻ tuổi Nguyễn Hữu Đống đã phải rời khỏi nhà TCS ngay sau đó, sau khi đã ăn ở trong nhà TCS nhiều tháng trước như một người em rể.
Sau này, trong thời Lý Quí Chung còn sống, tôi có hỏi về sự việc này. Với tư cách là một Bộ trưởng Thông Tin và người rất thân cận với tướng Dương Văn Minh, Lý Quí Chung đã xác nhận: không hề có một đề cử nào cho TCS và Nguyễn Hữu Đống vào chính phủ Dương Văn Minh cả. TCS và gia đình đã bị Nguyễn Hữu Đống lừa rồi! Và từ đó TCS đã coi Nguyễn Hữu Đống là kẻ ghê tởm.

Một chút về Nguyễn Hữu Đống

Nguyễn Hữu Đống tốt nghiệp thủ khoa Trường Kiến Trúc Sài Gòn khoảng năm 1964 nhưng không hành nghề kiến trúc sư, bắt đầu chơi thân công khai với Trịnh Công Sơn vào khoảng 1970. Tôi không được biết gì nhiều về nhân vật này ngoài việc chứng kiến sự xuất hiện thường xuyên trong nhà TCS những tháng trước 4/1975 với tư cách em rể TCS, giữa lúc Sài Gòn liên tiếp nhận những thông tin về các tỉnh Tây Nguyên thất thủ, và cũng được biết từ TCS vào những ngày cuối của tháng 4/1975 là: chính quyền mới sẽ vẫn giữ nguyên chiếc ghế Đệ nhất Phó Thủ Tướng của chính phủ đầu hàng Dương Văn Minh (tức ghế của Nguyễn Hữu Đống). Sau đó, Nguyễn Hữu Đống đã vượt biên và định cư ở Pháp.

Thế nhưng, vào khoảng năm 1992, Nguyễn Hữu Đống về Sài Gòn và tìm thăm tôi. Tôi tiếp anh tại nhà và cùng ăn trưa. Thật ra, giữa tôi và Nguyễn Hữu Đống không đủ thân để anh tìm thăm, chẳng qua là chỗ để anh trút hết những gì TCS và gia đình không tiếp khi anh tìm đến thăm họ sau hằng chục năm ly gián từ ngày ấy. Trong những thổ lộ của Nguyễn Hữu Đống có 2 chi tiết đáng chú ý: Một là: Ý tưởng và mô hình kiến trúc Ngôi Đền Tình Yêu có hình quả trứng (lấy từ truyền thuyết Âu Cơ đẻ ra 100 trứng) để TCS chủ trì như một giáo đường là của Nguyễn Hữu Đống; Hai là: để Ngôi Đền Tình Yêu này mang đậm sắc thái TCS, Nguyễn Hữu Đống lập ý cho TCS viết Kinh Việt Nam. Dự án này tôi đã được TCS cho biết trước năm 1975 và sẽ xây dựng trên ngọn đồi của Bác sĩ Bùi Kiện Tín ở Thủ Đức, nằm đối diện với nghĩa trang quân đội Sài Gòn cũ. Xét về mặt tài năng kiến trúc và con người đầy tham vọng làm chính trị của Nguyễn Hữu Đống cũng như mối quan hệ mang tính chính trị giữa anh và TCS thì thông tin này đáng tin hơn là gần đây có nghe dư luận từ Phạm Văn Hạng là dự án này của Phạm Văn Hạng và TCS được ông Võ Văn Kiệt ủng hộ?

(Để biết thêm mối quan hệ chặt chẽ giữa TCS và Nguyễn Hữu Đống, xin độc giả đọc thêm đoạn trích dẫn trong phần ghi chú cuối bài viết này, câu Lê Khắc Cầm trả lời phỏng vấn Nguyễn Đắc Xuân về TCS).

Bài Học Lớn Cho Người Làm Chính Trị Tự Phát Trong Xã Hội CSVN

Những Gáo Nước Lạnh Ngày “anh em ta về”

Tuy nhiên, sau sự thất bại ấy, TCS lại đứng lên vui mừng vì Sài Gòn của anh trong ngày 30-4-75 đã xuất hiện: “Cờ bay trăm ngọn cờ bay” và“anh em ta về mừng như bão cát quay cuồng…”. Từ sự kiện tại Đà Lạt mà Nguyễn Đắc Xuân đã nhắc đến ở trên cho đến ngày 30-4-75 không có một chỉ dấu nào cho thấy có mối liên lạc về mặt tổ chức giữa Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam và Trịnh Công Sơn. Thậm chí khi anh được kiến trúc sư Nguyễn Hữu Thái đưa đến Đài Phát Thanh Sài Gòn để hát bài Nối Vòng Tay Lớn mừng chiến thắng lịch sử 30-4-75, TCS, tác giả của ca khúc có tính dự báo cho ngày huy hoàng này của quân Giải phóng và bi thảm cho phía VNCH, cũng bị Tôn Thất Lập, một nhạc sĩ chủ chốt trong phong trào Hát Cho Đồng Bào đã thoát ly đi theo MTGPMN, đuổi ra khỏi phòng thu: ”Mày có tư cách gì mà hát ở đây!”…

Bị bất ngờ với cú ra đòn khá tàn nhẫn này của người “anh em”, TCS thật sự choáng váng và sợ hãi, mọi niềm hân hoan trong anh về giấc mơ hoà bình cho đất nước của mình nay đã thành hiện thực bỗng chốc tan thành mây khói. Niềm vui tưng bừng reo ca “…Mặt đất bao la / anh em ta về / Gặp nhau mừng như bão cát quay cuồng trời rộng/ Bàn tay ta nắm nối tròn một vòng Việt Nam…” (Nối Vòng Tay Lớn) hôm ấy không thuộc về TCS, và thay vào đó là nỗi ám ảnh sắp bị thủ tiêu và phải làm thế nào chạy trốn khỏi “người anh em” càng sớm càng tốt.

Thật ra, tai nạn chính trị này đã có nguồn gốc từ quan điểm chính về tính hai mặt trong âm nhạc và con người TCS của Ban Văn Hoá Tư Tưởng-Trung Ương Cục Miền Nam do Ông Trần Bạch Đằng phụ trách. Chính nhạc sĩ Trần Long Ẩn đã kể lại rằng đã có một cuộc họp kiểm điểm TCS trong Cứ trước 1975 với thành phần tham dự gồm có hầu hết các văn nghệ sĩ thoát ly theo MTGPMN như: Tôn Thất Lập, Trần Long Ẩn,… dưới sự chủ trì của ông Trần Bạch Đằng.

Và Cuộc Chạy Trốn Khỏi Sài Gòn

Sự sợ hãi càng tăng cao khi TCS nhận được tin mình sẽ bị thanh toán. Chỉ vài ngày sau, TCS đã âm thầm cùng mẹ rời khỏi Sài Gòn bằng xe đò, trực chỉ ra Huế, nơi anh cũng đang có những ”người anh em” thân thiết cũ vừa chiến thắng trở về như Hoàng Phủ Ngọc Tường, Nguyễn Đắc Xuân, Thái Ngọc San,… hy vọng chắc được yên thân.

Trở lại sống trong căn hộ cũ 11 Nguyễn Trường Tộ - Huế, TCS quây quần với bạn bè cũ và mới không được bao lâu thì cả thành phố Huế lên cơn sốt đả đảo TCS và Phạm Duy. Các biểu ngữ được giăng ở các trường đại học và TCS phải lên Đài truyền hình Huế đọc bài tự kiểm điểm. Sự cố lần này cũng lại do một nhạc sĩ tổ chức, nhạc sĩ Trần Hoàn, Giám đốc Sở VH&TT tỉnh Bình Trị Thiên. Thế là TCS đã tránh được vỏ dưa SG nay lại găp vỏ dừa Huế! Sự bé cái lầm lần này, có lẽ do TCS đã kỳ vọng ở bạn mình quá nhiều nhưng thực tế vai trò trong lực lượng tiếp quản Huế của Hoàng Phủ Ngọc Tường và Nguyễn Đắc Xuân rất khiêm tốn, chính họ cũng đang phải cố gắng phấn đấu để được kết nạp vào đảng thì làm sao bao che cho tác giả của 2 ca khúc từng bị người CSVN kết án (Ca khúc Gia Tài Của Mẹ với câu: “Hai mươi năm nội chiến từng ngày” đã xúc phạm đến đại cuộc chống Mỹ cứu nước của người CSVN và ca khúc Cho Một Người Nằm Xuống để thương tiếc Lưu Kim Cương - đại tá không lực VNCH chết bởi đạn của quân GPMN - người bạn một thời đã từng dùng máy bay không quân đưa TCS lên Đà Lạt thăm Khánh Ly hoặc ngược lại, đón Khánh Ly về hát với TCS) tại Sài Gòn?

Lần này ở Huế, tính tẩy chay TCS nghiêm trọng và công khai hơn hẳn vụ ở Đài Phát Thanh SG vừa qua. Tình bạn cũ trong trái tim TCS sụp đổ đã đành mà giấc mơ “Khi đất nước tôi thanh bình/Tôi sẽ đi thăm…” tưởng dễ thực hiện của anh cũng bị dập tắt. Những tháng ngày tiếp theo ở Huế, TCS sống như một con tin trong Hội Văn Nghệ Bình Trị Thiên, thường xuyên được tổ chức bố trí đi lao động thực tế trên những cánh đồng vào mùa khô cũng như mùa lụt, không hơn gì một người phải chịu cải tạo.

Cuộc Chạy Trốn Lần Thứ 2

Tuy nhiên, đang kẹt trong cái thế “tiến thoái lưỡng nan” này ở tại chính quê nhà, nơi mình từng tham gia hoạt động đấu tranh chống Diệm rồi chống Mỹ-Thiệu trong Phong Trào Đô Thị Huế với Hoàng Phủ Ngọc Tường, Ng K, Nguyễn Đắc Xuân,… cũng không xong mà về lại Sài Gòn thì càng nguy hiểm thì một vị cứu tinh kịp xuất hiện, ông Võ Văn Kiệt - nhà lãnh đạo công sản cao cấp tiếp quản Sài Gòn lúc bấy giờ. Một cuộc vượt biên nội địa đưa TCS vào lại Sài Gòn sau khoảng 1 năm anh phải “đi thực tế” tại các vùng quê tỉnh Bình Trị Thiên được bí mật tổ chức do ông Kiệt uỷ thác cho nhà văn cộng sản Nguyễn Quang Sáng thực hiện thành công. Từ đây, dưới sự ưu ái của ông Kiệt và nhà văn Nguyễn Quang Sáng được uỷ nhiệm của thượng cấp chăm sóc TCS, cái hạn bị hăm doạ hay trù dập với người nhạc sĩ lãng mạn cách mạng này đã kết thúc.
Qua những “sự cố” như thế, có thể thấy TCS đã mắc những sai lầm với người CS như sau:

- Thiếu minh bạch trong suy nghĩ về chiến tranh VN và tính hai mặt trong quan hệ xã hội.
- Không ở trong một đường dây của tổ chức và chịu sự lãnh đạo của tổ chức đó.
- Không dám thoát ly đi theo MTGPMN.

Và những sai lầm của TCS với phía VNCH:

- Kêu gọi phản chiến nhưng chỉ nhằm vào phía VNCH.
- Thiên về phía người CSVN ngay cả sau khi bị họ giết hụt trong vụ Tết Mậu Thân ở Huế.
- Chống lại phía đã tạo cho mình điều kiện học hành và tự do sáng tác, kể cả tự do tư tưởng dù có bị chế độ SG hạn chế và kiểm duyệt, nhưng không quyết liệt tiêu diệt như đã được thổi phồng (dùng giấy của Hoàng Đức Nhã cấp để đi đường do Phùng Thị Hạnh trung gian, nhiều sĩ quan VNCH che dấu,…) để có một nhạc sĩ Trịnh Công Sơn tồn tại lừng lẫy như thế cho đến ngày 30-4-75. Dù ý thức chính trị ra sao, Trịnh Công Sơn vẫn là sản phẩm của chế độ VNCH đúng như Đặng Tiến đã nhận định trong một bài viết ở đâu đó mà tôi không còn nhớ tên.

Bước Ngoặt “Mỗi Ngày Tôi Chọn Một Niềm Vui”

Sa Lầy vào Rượu và Xu Nịnh

Cuối tháng 5-1978, tôi ra khỏi trại cải tạo, gặp lại TCS. Lần nào đến nhà anh ở 47c Phạm Ngọc Thạch-Sài Gòn, sáng hay chiều, cũng thấy TCS ngồi nhậu rượu Ararat, một loại cô-nhắc Nga (sau “đổi mới” chuyển qua rượu chát đỏ của Pháp, và sau cùng là Whisky Chivas) với Nguyễn Quang Sáng và một số bạn “mới”. Tôi cảm thấy có một điều gì đó không ổn, hình như tôi, một thằng sĩ quan Nguỵ đi tù về, không còn được TCS và gia đình coi là người thân như ngày xưa. Thái độ khó chịu của tôi mỗi lần ngồi trước mặt những người bạn “mới” này của Sơn đã khiến tôi bị TCS và gia đình tẩy chay ngầm.

Thực ra, tôi đã bị TCS và nhóm bạn Huế cũ loại ra từ những năm tháng tôi đi lính VNCH mà tôi không hề biết. Sau này, hoạ sĩ Tôn Thất Văn (đã chết) đã kể lại cho tôi rằng có những cuộc họp ở Huế vào những năm 60-70, TCS và những người mà tôi đã coi là bạn thân tình đã đem tôi ra để phê phán, tẩy chay vì tôi đã không trốn lính và đứng về phía Quốc Gia. Rất tiếc, trong số này lại có cả Đinh Cường, người đã từng học cùng trường mỹ thuật, ở cùng nhà, và do tôi giới thiệu làm quen với TCS, do tôi kết nối với anh bạn Thọ giàu có ở Đà Lạt để có những tháng ngày cùng TCS rong chơi thơ mộng khi lưu lại căn phòng anh Thọ đã thuê cho tôi tại biệt thự số 9 đường Hoa Hồng hay ở trong căn nhà sàn gỗ thơ mộng bên một dòng suối róc rách trong một hóc núi của thị trấn Đơn Dương từ trước khi tôi rời Đà Lạt về Sài Gòn năm 1964 theo giấy gọi vào quân trường sĩ quan trừ bị Thủ Đức khoá 19. Và cả những tháng ngày nhàn nhã làm sinh viên sĩ quan tại đây vào năm 66 hay 67, lúc này tôi là sĩ quan huấn luyện CTCT và phụ trách một phần nguyệt san “Bộ Binh”. Sau ngày 30-4-75, với cấp bậc Trung uý ngành Công binh VNCH, Đinh Cường trở lại Trường Mỹ Thuật Huế và được miễn đi học tập cải tạo nhờ vào việc đã tham gia các hoạt động đấu tranh chống VNCH của nhóm Hoàng Phủ Ngọc Tường, Ngô Kha, Nguyễn Đắc Xuân, TCS,.., nhiều năm trước.

Có một kỷ niệm đặc biệt với Đinh Cường mà tôi cũng muốn nói ra luôn sau bao nhiêu năm cố giữ chặt trong lòng, để lòng mình thôi nặng trĩu và cũng minh chứng cho một tình bạn không hề có thật mà anh ấy đã dành cho tôi, mà tôi đã hằng chục năm cố nghĩ khác đi, cố không tin. Sự việc xảy ra như thế này: Ngày 1-5-75, 8g sáng tôi đến nhà Đinh Cường ở đường Nguyễn Đình Chiểu cũ, gần chợ Tân Định để xem tình hình như thế nào. Như thường lệ tôi vẫn đến đây dễ dàng như người trong nhà nên rất tự nhiên bước lên cầu thang dẫn lên căn gác của bạn mình. Thế nhưng chị TN, vợ Đinh Cường đã chặn tôi lại ở giữa cầu thang và nói Đinh Cường đi khỏi rồi. Tôi không tin và nói lớn là có hẹn trước, lúc đó Đinh Cường mới nói vọng xuống để tôi lên. Khi lên tới nơi thì đã có mặt của Bác sĩ Trương Thìn, Nhạc sĩ Miên Đức Thắng cùng ngồi đó. Tôi gượng gạo ngồi xuống và Đinh Cường nói với 2 vị khách kia như hỏi ý: “Mình cấp cho TC cái giấy chứng nhận thuộc Thành Phần Thứ 3 nhé!”. Lập tức tôi đứng lên và từ chối: “Không, hãy để tôi chịu trách nhiệm với họ, và Thành Phần Thứ 3, Thứ 4 gì họ cũng dẹp sạch thôi!”…

Với TCS, gia đình cùng các “đồng chí” rượu của anh, tôi lúc này là một kẻ xa lạ, một người lạc hướng, môt cái gai khó chịu, một con kỳ đà làm cho cuộc vui hoan lạc của họ không được hoàn hảo, tôi nên biến đi. Nhưng tôi lại là một gã ngoan cố, tự cho mình nhiệm vụ phải ngồi lại để làm Sơn tỉnh táo hơn, để những tiếng nói bớt đi những lời xu nịnh. Ý thức được rượu, phụ nữ và xu nịnh là một loại ma tuý tổng hợp đang nhấn chìm TCS được nguỵ danh dưới khẩu hiệu “Mỗi ngày tôi chọn một niềm vui” nên tôi cố chiụ đựng sự khó chịu của họ và vẫn không tìm cách lấy lại chỗ đứng thân thiết vốn có với TCS thủa còn trai trẻ ở Huế bằng rượu chè, quà cáp đắt tiền và những tán tụng nuông chìu. Tôi vẫn đứng trên đôi chân liêm sỉ và theo đuổi một thứ nghệ thuật tri thức, đó là chỗ mà TCS, trong thâm sâu của tâm hồn anh, không thể loại bỏ tôi cho dù có khác nhau về quan điểm chính trị và cách sống. Đó cũng là điều mà TCS trong những lúc cô đơn nhất đã đến gõ cửa nhà tôi bất kể đêm khuya hay khi bình minh vừa ló dạng để hàn huyên hoặc khoe và hỏi ý kiến tôi về bức tranh mà anh vừa vẽ.

Điều Đáng Tiếc

Trong thời buổi sống như một kẻ bên lề của một Sài Gòn đã bị đổi tên và những người bạn thân một thời hồn nhiên như thế nay cũng đã cúi mình, ngoan ngoãn làm những con rối của chế độ mới, quay lưng lại với thân phận khốn đốn của đồng loại, tự huỷ tri thức, lương tâm, thứ một thời nhờ nó đã làm nên những ca khúc tranh đấu cho thân phận và tự do con người, nay chọn cho mình con đường sa lầy vào rượu, thuốc và phụ nữ, tôi thấy mình thật sự cô độc và bất lực trước sự sụp đổ từng ngày của một người bạn tài hoa nhất mà tôi từng yêu quí. Nhiều khi tôi muốn nói với bạn mình: “Tại sao cậu lại sa đà vào những cuộc chơi phù phiếm? Tại sao cậu không viết những ca khúc cho thân phận VN 2 đang bị một thứ xiềng xích vô hình nhưng vĩnh cửu, vì nó được khoá bởi chính người VN chứ không phải ngoại bang? Hay ít ra thì cậu nên sống yên lặng như một cái bóng, một hòn đá tảng vì cái giấc mơ hoà bình, thống nhất quê hương của cậu dù không phải nguyên nhân chính gây ra sự sụp đổ hoàn toàn nền Cộng Hoà trẻ tuổi MNVN, nhưng về mặt tâm lý cũng đã ít nhiều làm lợi cho phía bên kia, vô tình đồng loã với kẻ đã gây ra cái bi kịch thảm khốc cho hằng triệu người Việt từng ái mộ, tôn thờ cậu nay phải bỏ nước ra đi bằng giá của cái chết không được chôn cất, bằng sự tật nguyền tinh thần, nếu may mắn đến được bờ tự do thì bạn cũng đáng được cảm thông… Vì tôi biết chắc chắn một điều là tất cả những trí thức thiên tả VN như cậu cũng đều không chờ đợi một kết cuộc cho đất nước theo cách như đang diễn ra…”. Nhưng có lẽ trực giác của tôi đã mách bảo rằng điều ấy nằm ngoài khả năng của TCS, cứ để cuộc sống của anh phụ thuộc vào bản năng, đã tiêu vong rồi một TCS mạnh mẽ dấn thân, mạnh mẽ ca hát cho hoà bình đất nước, cho dân tộc ấm no, bình đẳng, tự do và hạnh phúc như ngày nào. Thời cuộc làm ra TCS đấy thôi, anh không phải là người làm ra thời cuộc, nên tôi đã nghẹn họng.

Ảo Tưởng Cuối Cùng

Dần dà rồi TCS cũng tìm lại cho mình một phần phong độ sáng tác nhờ hấp thụ những ngọn lửa nhỏ từ những nhan sắc phụ nữ và sự trân trọng (theo chủ trương) của những nhạc sĩ thuộc Hội Âm Nhạc TP HCM như Xuân Hồng, Hoàng Hiệp, Thanh Tùng, Tôn Thất Lập, Trần Long Ẩn,… và một nhóm nhạc do họ tổ chức có tên “Những Người Bạn” ra đời khoảng thập niên 90, và TCS được coi là đầu đàn. Anh trở thành nhân tố quan trọng nhất trong việc thu hút sự chú ý của công chúng mỗi khi anh có mặt trong các show diễn của nhóm. TCS cũng là một tiếng nói có trọng lượng nhất đối với nhiều tên tuổi hàng đầu của nhạc cách mạng VN như Văn Cao, Trọng Bằng, Hồng Đăng,… trừ ông nhạc sĩ Bộ Trưởng Bộ VH&TT Trần Hoàn (đã nghĩ hưu), người từng mở chiến dịch đả đảo anh một thời ở Huế, là vẫn tiếp tục nhìn TCS như một kẻ xấu.

Dù gì thì thế đứng chính trị của TCS cũng đã được tốt hơn trước rất nhiều, có phải vì thế mà anh đã chủ quan nghĩ mình là người đến lúc nên đứng vào hàng ngũ của đảng?

Sơn đem ý định này nói với tôi, tôi liền can:“Không nên Sơn ơi, cậu đang là một nhân vật âm nhạc lớn, người ta nể trọng vì ảnh hưởng của cậu đối với công chúng rất lớn cũng như quốc tế. Nay cậu trở thành đảng viên mới tò te còn ai coi trọng nữa. Nếu ông Hoàng Hiệp chống lai là may cho cậu lắm đó!”. Tôi đã nói với TCS như thế và TCS im lặng. Tuy nhiên không phải nhờ sự phân tích ấy mà TCS không trở thành đảng viên Đảng CSVN, mà bởi sự ngăn cản của nhạc sĩ Hoàng Hiệp, người giữ vai trò chính trị của Hội Âm Nhạc TP HCM và cũng là cán bộ có trách nhiệm quản lý TCS. Trong một lần bất bình vời Hoàng Hiệp về việc bị kiểm điểm, TCS đã chửi thẳng vào mặt Hoàng Hiệp ngay tại trụ sở Hội Âm Nhạc TP HCM:”Mày là thằng mặt lồn!”.

Đã không những không được vào đảng, TCS còn được cho về hưu để vĩnh viễn kết thúc giấc mơ - ảo tưởng cuối cùng của anh.

Cái Chết - Vinh Quang Đích Thực

Nếu con đường chính trị đối với TCS là một con đường dẫn anh xuống vực thẳm thì cái chết là một kết thúc hoàn hảo. Hay nói một cách khác, nó đã giải cứu và trả lại vinh quang đích thực cho anh - vinh quang dành cho di sản ca khúc TCS.

Không chỉ niềm vinh quang này bừng sáng huy hoàng bởi hàng chục ngàn người yêu âm nhạc của anh ở trong nước tiễn đưa anh đến nơi an nghỉ cuối cùng, mà người Việt trên khắp thế giới cũng nhỏ lệ tiếc thương, nhất là người Việt ở Mỹ, nơi mà Trịnh Công Sơn lúc sinh tiền không dám đặt chân đến dù không ít lời mời. Một lễ tưởng niệm long trọng được tổ chức tại Hội trường báo Người Việt với sự tham dự đông đảo của nhiều giới khác nhau trong cộng đồng ở cả Nam và Bắc California ngay trong đêm 1-4-2001, điều mà trước đó không ai dám nói công khai về tình cảm của mình với TCS ở chỗ đông người tại Mỹ.

Lời Kết

Sau 8 năm Trịnh Công Sơn ra đi, mọi cảm xúc thương tiếc sau cái chết của anh trong mỗi chúng ta cũng đã phần nào chìm lắng, hôm nay, tôi quyết định và chọn lựa thời điểm này để viết về một góc khác, một phương diện khác của Trịnh Công Sơn mà chưa ai viết hoặc viết một cách có hệ thống.

Bài viết này chắc chắn sẽ gây ra sự mất mát tình cảm, sự đổ vỡ các mối quan hệ vốn có của tôi, vì một số những nhân vật được đề cập nay đang còn hiện diện trong cuộc đời. Sự thật bao giờ cũng gây mất lòng, tôi đã tự hỏi mình nhiều lần trong nhiều năm qua: có nên viết nó ra, giải thoát cho nó khỏi ngục tù trong tôi suốt hơn 30 năm qua? Sự quằn quại của nó trong cái nhà tù ký ức cũng làm tôi đau buồn đến không chịu nổi. Giải phóng cho nó là giải phóng cho chính tôi, dù có phải bị trả giá.

Đó là về phần cá nhân tôi, còn đối với TCS, bài viết này tôi muốn bổ sung thêm những điều mà trong các cuộc nói chuyện về TCS ở Mỹ tôi đã không thể nói hết được. Một nửa sự thật cũng chưa phải là sự thật. Tôi tin vào điều tốt đẹp của sự thật. Nó có thể sẽ làm tan đi hình ảnh một TCS được tô vẽ bởi những huyền thoại và ảo ảnh lấp lánh trong lòng ai đó, nhưng sẽ trả lại một TCS thiên tài đích thực của âm nhạc như nó vốn có, để mọi người nếu đến với nhạc Sơn thì sẽ có được cơ may yêu mến trọn vẹn một con người có thực, chứ không phải một thứ tượng đài được nhào nặn, tô vẽ và dựng lên vì một mục đích riêng. Đã đến lúc sự thật đó cần được trả lại cho những người Việt đã, đang và sẽ mãi còn coi nhạc Trịnh là lẽ sống của mình, mang nó theo mình như một thứ tài sản vô giá dù đi đến bất kỳ đâu, dù ở chiến tuyến nào.

Tất nhiên, những lập luận và lời kể trong bài viết này dựa vào những gì tôi đã trải qua, những tư liệu riêng và những tư liệu của những người bạn cũ của TCS mà họ đã công khai phổ biến trên các phương tiện truyền thông, và vì thế chắc chắn còn thiếu sót tất yếu, vì tôi biết còn nhiều sự thật đang được cất dấu bởi những người có quan hệ cận kề với TCS trong từng giai đoạn của lịch sử VN từ 1954 đến hôm trước khi TCS qua đời mà họ vì những lý do nào đó chưa tiện nói ra. Tôi xin cám ơn những ai sẽ đóng góp thêm những gì giúp cho bài viết này được hoàn hảo hơn, kể cả những phản biện.

Sau cùng, mỗi con người Việt Nam đã trải qua và sống sót sau cuộc chiến tranh khốc liệt vừa qua đều giữ trong mình những sự thật riêng, một gốc nhân chứng riêng, xin quí vị hãy trả lại nó cho lịch sử, nếu được như thế thì tấm gương lịch sử VN mới trong sáng được. Cũng vì điều này, cho tôi xin lỗi những gì mà bài viết có làm tổn thương đến một ai đó cũng là vì không còn sự lựa chọn nào khác.

Sài Gòn 29/3/2009
TRỊNH CUNG
———————————————————————————–
Tư liệu tham khảo:
1. Như Những Dòng Sông, Hoàng Tá Thích, Nhà Xuất Bản Văn Nghệ 2007.
2. Trịnh Công Sơn, Cuộc đời, Âm nhạc, Thơ , Hội hoạ & Suy tưởng, Nhà Xuất Bản Văn Hoá Sài Gòn, 2005.
3. Thư TCS gửi Ngô Kha, nguồn: http://www.gio-o.com
4. Sự thực Thư Gửi Ngô Kha, Nguyễn Đắc Xuân, phần phỏng vấn Lê Khắc Cầm, nguồn: http://www.gio-o.com
5. Có nghe ra điều gì, Thủ bút của TCS nói về trách nhiệm của mình với đám đông (Tư liệu của Bác sĩ, nhà văn Thân Trọng Minh - Lữ Kiều).

Wednesday, 1 April 2009

Chủ nghĩa thực dân mới mang đặc sắc Trung Quốc (April 02, 2009)

La Chine mélange le riz avec le néo-colonialisme

Lorsque la Chine, l’un des pays les plus corrompus dans le monde, commence à distribuer des milliards de dollars en forme d’aide et de contrats d’affaires en Afrique, continent le plus corrompu du monde, les alarmes sonnent à Washington et dans d’autres capitales occidentales. Le fait que la Chine tourne un oeil aveugle envers les abus très répandus de droits de l’Homme dans ce continent intensifie encore plus les inquiétudes de l’Occident.

Sécuriser l’approvisionnement du pétrole constitue la principale raison pour l’agressivité de la Chine pour développer ses liens économiques avec l’Afrique. Afin d’alimenter sa croissance économique phénoménale qui a fait une moyenne annuelle de plus de 9% ces 20 dernières années, la Chine a besoin de pétrole ainsi que de matières premières. N’étant pas riche en réserves pétrolières, la Chine est devenue de plus en plus dépendante du pétrole importé.

Entre temps, l’Afrique abrite 8% des réserves mondiales de pétrole, ce qui incite la Chine à dépenser des milliards de dollars dans le but d’obtenir les droits de forage au Nigeria, au Soudan et en Angola tout en négociant des contrats d’exploration avec le Tchad, le Gabon, la Mauritanie, le Kenya, la Guinée Equatoriale et la République du Congo. Le continent représente actuellement 25% des importations pétrolières de la Chine. Par contre, les Chinois sont aussi les investisseurs principaux dans l’industrie de cuivre en Zambie et dans la République Démocratique du Congo. De plus, ils sont en train d’acheter du bois au Mozambique, au Liberia, au Gabon, au Cameroun et en Guinée Equatoriale.

En échange de l’énergie, des ressources minérales et d’autres matières premières, la Chine fournit l’aide et l’assistance technique en offrant des prêts sans intérêt aux gouvernements africains qui sont très adaptés aux besoins des affaires. En même temps, les compagnies chinoises ont gagné des contrats pour construire des autoroutes, des pipelines, des barrages hydroélectriques, des hôpitaux, des stades et pour moderniser des chemins de fer, des ports et des aéroports. Dès qu’il y a des endroits où les compagnies occidentales ont peur des faibles marges bénéficiaires ou des préoccupations environnementales ou politiques, les chinois s’y lancent. Les compagnies publiques de Chine sont capables de mettre les bénéfices à court terme de côté en se concentrant sur les plans économiques à long terme du gouvernement.

Quant aux scrupules environnementales et politiques, les dirigeants chinois ont fait comprendre qu’ils n’en ont pas beaucoup. Ainsi, l’approche sans condition pour faire les affaires en Afrique est en contradiction flagrante avec les soucis de l’Occident à l’égard du développement démocratique et du respect pour les droits de l’Homme. L’offre est clair : en échange des matières premières sécurisées nécessaires pour alimenter son économie vorace, la Chine ne s’ingérera pas dans les affaires internes des gouvernements africains, même si ces gouvernements sont connus pour leur corruption endémique et pour leurs abus des droits de l’Homme.

L’élite dirigeante de l’Afrique est également contente lorsque les Chinois pompent de l’argent et des marchandises bon marchées dans leurs économies sans poser aucune pression à propos de la démocratie et des droits de l’Homme qu’ils se sont habitués à entendre des partenaires occidentaux. Grâce à la Chine, la demande du pétrole, du cuivre et du platine africains augmente alors que toutes les choses fabriquées en Chine allant des tee-shirts aux ustensiles en passant par des motos sont en vente libre partout dans le continent aux prix beaucoup plus bas que ceux et celles importés d’ailleurs.

Certainement, les dirigeants africains comme Robert Mugabe du Zimbabwe et Omar Hasan Ahmad al-Bashir du Soudan sont reconnaissants à la Chine pour sa promesse d’un partenariat égal avec leurs nations. Au Soudan, Pékin est l’un des fournisseurs d’armes les plus importants de Bashir. La Chine a soutenu la résistance du président à l’encontre du stationnement des troupes de maintien de la paix dans la région du Darfour, là où les Etats-Unis ont accusé le génocide autorisé par le gouvernement d’avoir tué des centaines de milliers de personnes. L’appui chinois n’a étonné personne compte tenu du fait que plus de la moitié des exportations pétrolières du Soudan vont en Chine. En tout, le Soudan représente 5% du pétrole consommé par la Chine.

Les relations de la Chine avec les nations telles que le Soudan font craindre les officiels à Washington que l’investissement chinois ne puisse être utilisé, soit directement soit indirectement, pour soutenir les terroristes. Pour Pékin, cela montre juste un autre exemple de la pensée alarmiste de la Maison Blanche qui est apparemment déterminée de contenir l’essor de la Chine comme puissance mondiale.

Tandis que les dirigeants chinois et africains arrosent ce que Pékin qualifie d’une relation « à double gagnant », les africains moyens ne pourraient pas être tellement ravis. Dans un continent où près de la moitié de la population vit de moins d’un dollar par habitant par jour, une voiture ou un climatiseur bon marché, ou même un nouveau tee-shirt reste encore hors de portée des personnes ordinaires.

C’est vrai que les Africains ont besoin d’emplois. Bien qu’il n’y ait pas de question que les projets chinois ont créé des emplois dans certains endroits, ils ont évidemment fait perdre des emplois dans d’autres. Par exemple, en Afrique du sud et au Lesotho, on reproche la perte de dizaines de milliers d’emplois locaux dans l’industrie textile aux importations moins chères de Chine, alors la Chine a insisté sur l’embauche de travailleurs chinois dans les projets de rénovation des chemins de fer en Angola.

Bien que la politique africaine de Chine ait gagné les coeurs et les cerveaux des dirigeants du continent, le peuple africain traîne bien derrière ces « élites ». Le peuple attend de voir si le modèle d’engagement avec le continent sera différent de celui des puissances coloniales d’exploitation dans le passé.

Jusqu’ici, avec la Chine utilisant le continent comme une source de matières premières et comme un dépotoir pour ses propres biens manufacturés, la formule semble pareille.

(TMH, d’après Asia Times)

Wednesday, 22 October 2008

CNTB "lại" giãy chết !!! (October 22, 2008)



BBC Việt ngữ đăng tin này rất thú vị : Bộ Tư bản của Marx hiện trở thành sách bán chạy trong giới thanh niên của Đức, những người tỏ ra mất niềm tin vào khả năng điều hành và giải quyết các vấn đề kinh tế của chính phủ hiện nay của họ và muốn đi tìm những kiến giải và giải pháp từ tác phẩm kinh điển của Marx.

Trong khi đó tạp chí Spiegel, bản tiếng Anh của Đức vừa thực hiện một bài phỏng vấn khá hay với giáo sư Muhammad Yunus (Bangladesh), người đoạt giải Nobel Hòa bình năm 2006 nhờ mô hình xóa đói giảm nghèo bằng các khoản tín dụng nhỏ. Theo ông Yunus, thị trường tài chính trong thời gian dài vừa qua với sự thiếu điều tiết chính là thủ phạm gây ra cuộc khủng hoảng tín dụng- kinh tế hiện nay. Câu nói nổi tiếng của ông đã trở thành cảm hứng cho hàng loạt các titres báo ở phương Tây trong những ngày qua : lòng tham tối đa hóa lợi nhuận bằng mọi cách đã hủy hoại hệ thống tài chính thế giới, và rằng « chủ nghĩa tư bản đã suy đồi thành một sòng bạc ». Nói về nền kinh tế- tài chính Mỹ, ông Yunus nói, ở Mỹ hệ thống tài chính với hình thức cho vay thế chấp dành cho bất động sản đã bị tách rời ra khỏi nền kinh tế thực, cũng giống như người ta xây các lâu đài « trên mây », để rồi một ngày nào đó bỗng nhận ra rằng chẳng hề có những tòa lâu đài đó và thế là thị trường tài chính sụp đổ.

Cũng với lập trường đó, ông Yunus cho rằng kế hoạch cứu nguy hệ thống ngân hàng trị giá 700 tỉ đô la mà Quốc hội Mỹ cuối cùng đã thông qua, hay những kế hoạch giải cứu tương tự của Pháp, Đức là những biện pháp tuy cần thiết trong thời điểm hiện tại (đơn giản là vì chẳng còn sự lựa chọn nào khác) nhưng lại không phải là một điều hay ho vì nó cho thấy một sự xói mòn nghiêm trọng về lòng tin đối với thị trường, sự bất lực, thậm chí biến mất của « bàn tay vô hình » trong lý thuyết của Adam Smith. Ông Yunus cho rằng, về lâu dài, chủ nghĩa tư bản với các cơ chế vận hành theo thị trường, phải sống lại và phải có khả năng tự giải quyết các vấn đề của mình. Chính phủ chỉ được phép can thiệp nhằm tăng cường cơ chế điều tiết, chứ không được phép điều khiển thị trường.

Cuối cùng, ông Yunus kêu gọi các doanh nghiệp, các tập đoàn tài chính hãy đề cao trách nhiệm xã hội của họ, bên cạnh mục tiêu chạy theo lợi nhuận. Nói cách khác, ông này cổ vũ cho mô hình tín dụng nhỏ mà Ngân hàng Grameen của ông đã và đang theo đuổi và nhờ nó mà ông đã được thưởng Giải Nobel Hòa bình.

Tuesday, 16 September 2008

"Đạp đổ" Hà Trần September 17, 2008



Bạn Hiếu , một "thầy giáo của các ca sỹ" (đúng nghĩa đen luôn) viết một bài rất hoành tráng về Album Trần Tiến- Hà Trần và nhất là về Hà Trần.Tớ thấy thế này:

Nói thật là tớ rất muốn tìm cách "đạp đổ" (đây là từ mà Hà Trần dùng- « đạp đổ thần tượng ») cái Album này của Hà Trần chỉ vì tớ thấy cô ý tỏ ra khá lấc cấc và chỏng lỏn trong nói năng khi trả lời trực tuyến trên Netlife. Với lại tớ vẫn khó có thiện cảm với các em đã xấu gái lại còn cá tính, vốn chỉ có thể lấy chồng là tây hoặc việt kiều =)) Mô phật, thiện tai ! Tuy nhiên tớ đã nghe hết cái Album này và thấy không nên cả giận mất ... khách quan. Xét tổng thể, Album nghe được, và cũng là sản phẩm hiếm trong tình hình nhạc nhẹ nước nhà hiện nay (cả trong nước và hải ngoại). Bố cục bài vở hay. Chân dung Trần Tiến được khắc họa đẹp, rõ nét dù không cần phải có Giai điệu Tổ quốc, Cây đàn đất nước hay thậm chí Những đôi mắt mang hình viên đạn. Tớ khuyên mọi người nên tìm nghe và mua đĩa thật J

Bài viết của Hiếu rất lucid. Hiếu vẫn có khả năng ngôn ngữ hóa các sắc thái cảm xúc, cảm thụ. Có cả một bồ từ vựng tiếng Việt mà tớ thu được sau khi đọc bài này. Bài viết của Hiếu nếu được phổ biến chắc sẽ có tác động định hướng ghê gớm tới người nghe Album này, có khi còn tạo ra một cơn sốt cũng nên. Tớ thấy may vì đã kịp nghe và tự cảm nhận Album này trước khi đọc bài của Hiếu. Nói đến đây tớ liên tưởng rằng thơ văn từ xưa đến nay lên cơn sốt thành các hit và best-seller hay sống được với thời gian phần nhiều nhờ vào sự tung hứng của giới phê bình, kiểu như Thơ Mới sống được, thậm chí được tôn thờ phần nhiều nhờ những người như Hoài Thanh- Hoài Chân J.

Nói như thế, tớ muốn nói tới cảm giác của tớ rằng sự ưu ái của Hiếu hơi hào phóng quá đối với Hà Trần và Album này của cô ấy. Thôi thì tạm gạt Tùng Dương và Hòa T.T sang một bên, chỉ nghe Hà Trần trong Album này thì sẽ thấy Hà Trần cũng đã trở nên « tròn trịa » và « cũ kỹ » như cách Hiếu nói về Mỹ Linh và Thanh Lam hiện nay. Thế này nhé, cách hát của Hà chứ gì, vẫn là lối hát dùng kỹ thuật, kỹ xảo để che lấp (theo cách hiểu tích cực) hạn chế về quãng yếu, về chất giọng mảnh trong giọng hát bẩm sinh của Hà. Lúc cô ấy tìm ra được cách hát này như trong Dệt tầm gai, Hoa gạo thì đó là sự thông minh, sự tự khám phá, đồng thời cũng là một khám mới trong nhạc nhẹ Việt Nam, nhờ đó Hà Trần được mặc định là Diva thứ 4 của nhạc Việt sau Lam, Nhung, Linh hoặc theo một trật tự thay đổi tí chút.

Nhưng theo gout của tớ thì ca sỹ, nhất là Diva trước khi có sự « thông minh », có khả năng xử lý sắc thái thì phải là người có tố chất bẩm sinh về quãng giọng, chất giọng, làn hơi để rồi từ đó họ có thể tạm giấu các tố chất trời cho đó vào sâu bên trong để chuyển sang phô diễn kỹ thuật, kỹ xảo, trí thông minh trong tạo nuance, nhưng rồi vẫn có lúc phải lôi được cái của trời cho của mình ra để khoe thiên hạ. Như thế mới đã. Và kiểu như thế tớ thì tớ chỉ thấy chị « Lam điên » mới xứng đáng với sự hào phóng ngôn ngữ trên của Hiếu, hehe. Còn như Hà Trần, cô ấy thông minh, nhưng vì cô ấy bẩm sinh không có quãng giọng rộng và vang như Céline Dion, không trường hơi như Mỹ Linh, không đầy đặn, căng tròn và bùng nổ như Thanh Lam nên nhiều khi cô ấy lâm vào cảnh « lực bất tòng tâm » như cách cô ấy đã hát « Cô đơn » của Nguyễn Ánh 9 trong DVD Thúy Nga. Thú thật, vẫn theo gout của tớ, cô ấy chỉ có thể hát điểm trong các CD tổng hợp nhiều ca sỹ, chứ mà nghe cả CD của Hà Trần thì monotone chết được mặc dù tớ cũng biết là Hà Trần cũng ý thức được điều đó nên mới cố gắng chú trọng vào các bản phối, cố gắng pha màu bằng các bản phối, khi thì có background, không có background, khi thì unplugged, khi thì điện tử.

Còn nói về hòa âm bằng nhạc unplugged hay nhạc điện tử thì CD này đâu có khác gì 98-03 hay Đối thoại 06. Đây nhé, Vận đổi sao dời hay Nhăng nhố thì vẫn là kiểu Hoa gạo. Còn Ra ngõ tụng kinh thì là kiểu phối của Mưa bay tháp cổ hay Nước Sâu. Mà nước sâu và Mưa bay tháp cổ đã là đỉnh cao của Hà Trần rồi thì chắc chắn mấy cái này sẽ chỉ còn là nối dài thành công, là níu kéo, chạy theo thời hoàng kim hay nói cho vui là thấy bở thì đào mãi. Mà đào mãi thì nhàm quá. Cũng may là ca khúc Trần Tiến hay quá, nhạc hay đã đành, triết lý trong lời bài hát vừa sâu sắc lại vừa không phải là cái gì cao siêu, xa lạ. Hay nói như Hiếu, ca từ của ông này nghe « gai người", « bụi bặm », « suồng sã » nhưng không dung tục. Một cái may nữa là có một số bài hát cũ được dùng để điểm xuyết cho Album và đặc biệt là cách dàn dựng bài, hòa âm và phần thể hiện cả ba ca sỹ Hà Trần, Tùng Dương và Hòa T.T có sự đầu tư kỹ lưỡng nên Album trở nên sinh động hơn so với khi phải nghe giọng hát của một mình Hà Trần từ đầu đến cuối. Cuối cùng thì phải chê cách Tùng Dương hát Điệp khúc tình yêu là hơi « nhảm », hát Độc huyền cầm quá lạm dụng kiểu ma quái. Khen Hòa T.T hát Phố núi khéo. Khen Hà Trần và Hòa Trần hát liên khúc Chị tôi & Lá diêu bông hay và phần dàn dựng kỳ công. Khen cái suồng sã và có chất nghệ sỹ của David Tran (là ai nhỉ) hát Mặt trời bé con.

Bonus: Link download Trần trụi 87

Sunday, 14 September 2008

Trăng sáng (September 15, 2008)



Trần Tiến viết câu này hay mà xót xa quá: "Hà Nội cái gì cũng rẻ, chỉ có đắt nhất TÌNH NGƯỜI thôi".

(Ngu1eabu hu1ee9ng phu1ed1- album Tru1ea7n Tiu1ebfn- Hu00e0 Tru1ea7n 2008)

u0110u00eam nay thu1ea5y nu00f3i Hu00e0 Nu1ed9i tru0103ng su00e1ng lu1eafm. Thu00ec u0111u00eam ru1eb1m mu00e0. Mu00e0 tu1eeb nu0103m 45 u00f4ng Thu00e9p Mu1edbi u0111u00e3 viu1ebft "Tru0103ng u0111u00eam nay su00e1ng quu00e1, tru0103ng mai cu00f2n su00e1ng hu01a1n". Tru0103ng Hu00e0 Nu1ed9i u0111u00eam nay su00e1ng, nhu01b0ng tru0103ng cu00f2n phu1ea3i su00e1ng hu01a1n, phu1ea3i su00e1ng nu1eefa, su00e1ng u0111u1ec3 soi hu1ebft vu00e0o u0111u01b0u1ee3c cu00e1c gu00f3c tu1ed1i nhu01b0 thu1ebf nu00e0y cu1ee7a u0111u1ea5t Hu00e0 thu00e0nh:

---

Chu1ee7 Nhu1eadt, 14/09/2008 - 3:23 PM

Nhu1eefng hu00ecnh u1ea3nh xu00f3t xa

Em bu00e9 bu1ecb mu1eb9 u0111u1eb7t bu00ean u0111u01b0u1eddng u0111u1ec3 ngu1ed3i xin tiu1ec1n ngay giu1eefa lu00fac mu1ecdi ngu01b0u1eddi nu00f4 nu1ee9c u0111u00f3n Trung thu.

1. Tu1ed1i 13/9, du00f2ng ngu01b0u1eddi chen chu00fac u0111u1ed5 vu1ec1 tuyu1ebfn phu1ed1 bu00e1n u0111u1ed3 chu01a1i Lu01b0u01a1ng Vu0103n Can (quu1eadn Hou00e0n Kiu1ebfm, Hu00e0 Nu1ed9i) vui chu01a1i Trung thu nhu01b0ng ai cu0169ng phu1ea3i u201cchu1eefng lu1ea1iu201d tru01b0u1edbc hu00ecnh u1ea3nh cuu1ed1i gu00f3c phu1ed1.

Giu1eefa lu1ed1i u0111i lu1ea1i tu1eafc nghu1ebdn, phu00eda bu00ean mu00e9p u0111u01b0u1eddng mu1ecdi ngu01b0u1eddi vu1eabn phu1ea3i cu1ed1 gu1eafng tru00e1nh u0111u1ec3 khu00f4ng du1eabm vu00e0o mu1ed9t bu00e9 trai chu1ec9 mu1edbi hu01a1n mu1ed9t tuu1ed5i u0111ang ngu1ed3i ngay giu1eefa u0111u01b0u1eddng. Em u0111u01b0u1ee3c u0111u1eb7t ngu1ed3i tru00ean mu1ed9t tu1ea5m bu00eca giu1ea5y, tru00ean tay cu1ea7m chiu1ebfc thu00eca xu00fac cu01a1m trong mu1ed9t u1ed1ng nhu1ef1a, bu1ed1c cu01a1m ru01a1i vu00e3i giu1eefa u0111u1ea5t u0111u1ec3 u0103n, cu1ea1nh u0111u00f3 lu00e0 mu1ed9t u00e2u nhu1ef1a u0111u1ef1ng mu1ed9t u00edt tiu1ec1n.
Em u0111u00e3 khu00f4ng cu00f3 mu1ed9t Trung thu nhu01b0 cu00e1c bu1ea1n cu00f9ng lu1ee9a.
Ru1ea5t nhiu1ec1u ngu01b0u1eddi bu1ecf tiu1ec1n vu00e0o u00e2u nhu1ef1a cho em, cu00f3 ngu01b0u1eddi cu00f2n u0111u01b0a u0111u1ed3 chu01a1i cho em nhu01b0ng nhiu1ec1u ngu01b0u1eddi phu1ea3i du1eebng lu1ea1i vu00ec khu00f4ng hiu1ec3u chuyu1ec7n gu00ec xu1ea3y ra. Mu1ea5y ngu01b0u1eddi phu1ee5 nu1eef du1eebng lu1ea1i hu1ecfi han: u201cMu1eb9 chu00e1u u0111u00e2u?u201d, em bu00e9 chu1ec9 tay vu1ec1 phu00eda bu00ean kia u0111u01b0u1eddngu2026 Ai cu0169ng ngu01a1 ngu00e1c, ai cu0169ng khu00f3 hiu1ec3u vu00e0 ai cu0169ng cu1ea3m thu1ea5y xu00f3t xa tru01b0u1edbc cu1ea3nh u0111u00f3, nhu1ea5t lu00e0 vu00e0o u0111u00fang ngu00e0y Trung thu.

Vu1eeba u0111u00fang lu00fac em bu00e9 tu00e8 ra quu1ea7n ru1ed3i khu00f3c u00f2a lu00ean, mu1ed9t lu00fac sau mu1ed9t ngu01b0u1eddi phu1ee5 nu1eef tu1eeb u0111u00e2u chu1ea1y ra, u0111u1ee9a bu00e9 u00fa u1edb gu1ecdi mu1eb9, chu1ecb ta bu1ebf con bu1ecf u0111i. Nhiu1ec1u ngu01b0u1eddi phu1eabn nu1ed9: u201cNhu00ecn chu1ecb ta nghu00e8o khu1ed5 gu00ec cho camu201d, u201cKhu00f4ng thu1ec3 nu00e0o tin nu1ed5iu201du2026 Mu1ea5y ngu01b0u1eddi bu00e1n hu00e0ng cu1ea1nh u0111u00f3 hu00f9a vu00e0o: u201cCon mu1ee5 nu00e0y u0111u00e1nh bu1ea1c u0111u1ea7u kia, u0111u1ea9y con ra u0111u00e2y kiu1ebfm tiu1ec1nu201d.

2. Tru01b0a 14/9, giu1eefa cu00e1i nu1eafng oi u1ea3, tru00ean u0111u01b0u1eddng Hu00e0ng Mu00e3 u0111u00f4ng u0111u00fac, mu1ed9t cu1ee5 giu00e0 ou1eb1n lu01b0ng mang tru00ean mu00ecnh chiu1ebfc bu1ecb u0111u1ef1ng nhu1eefng chiu1ebfc tru1ed1ng cu01a1m u0111i bu00e1n du1ea1o. Giu1eefa u201cru1eebng u0111u1ed3 chu01a1iu201d, hu00ecnh nhu01b0 chu1eb3ng mu1ea5y ai chu00fa u00fd u0111u1ebfn mu00f3n u0111u1ed3 cu1ee7a cu1ee5. Cu00f3 mu1ed9t cu1eadu thanh niu00ean hu1ecfi mua tru1ed1ng, cu1ee5 bu00e0 vui mu1eebng u0111u01b0a tru1ed1ng cho khu00e1ch. Bu1ed7ng phu00eda sau, ngu01b0u1eddi phu1ee5 nu1eef tu1eeb trong cu1eeda hu00e0ng u0111u1ed3 chu01a1i cu1ea1nh u0111u00f3 bu01b0u1edbc ra nu00f3i nhu01b0 tu00e1t nu01b0u1edbc: u201cBu00e0 kia, u0111i chu1ed7 khu00e1c bu00e1n, u0111i ngay!u201d.
Cu1ee5 bu00e0 bu00e1n tru1ed1ng du1eebng u0111u00e2u cu0169ng bu1ecb u0111uu1ed5i.
Bu00e0 cu1ee5 chu1eadm chu1ea1p ku00e9o ngu01b0u1eddi khu00e1ch tiu1ebfn lu00ean mu1ed9t u0111ou1ea1n, tru01b0u1edbc mu1ed9t cu1eeda hu00e0ng bu00e1n u0111u1ed3 chu01a1i khu00e1c. Chu1ee7 cu1eeda hu00e0ng nu00e0y u0111ang tu1ea5t bu1eadt vu00ec u0111u00f4ng khu00e1ch nhu01b0ng vu1eabn tranh thu1ee7 ra xua cu1ee5 bu00e0 u0111i chu1ed7 khu00e1c. u0110i u0111u1ebfn u0111u00e2u cu1ee5 cu0169ng bu1ecb u0111uu1ed5i, cuu1ed1i cu00f9ng cu1eadu thanh niu00ean khu00f4ng chu1ecdn nu1eefa mu00e0 mua luu00f4n ba chiu1ebfc tru1ed1ng cho cu1ee5.
Anh thanh niu00ean nu00e0y mua cho cu1ee5 ba chiu1ebfc tru1ed1ng khu00f4ng hu1ec1 chu1ecdn lu1ef1a cu0169ng khu00f4ng mu1eb7c cu1ea3

Khu00f3 hiu1ec3u nhu1ea5t lu00e0 khi cu1ee5 giu00e0 u0111i nhu1eb7t nhu1eefng chiu1ebfc tu00fai bu00f3ng bu1ecb vu1ea5t giu1eefa u0111u01b0u1eddng, nhu1eefng chiu1ebfc tu00fai bu00f3ng chu1eb3ng ai cu1ea7n u0111u1ebfn. Vu1eady mu00e0, khi bu00e0 u0111ang cu00fai nhu1eb7t, mu1ed9t ngu01b0u1eddi bu00e1n hu00e0ng tu1eeb u0111u00e2u lu1ea1i chu1ea1y ra nu00f3i: u201cAi cho bu00e0 nhu1eb7t tu00fai bu00f3ng u1edf u0111u00e2yu201d, ru1ed3i giu1eb1ng lu1ea1i nhu1eefng chiu1ebfc tu00fai bu00f3ng u201cvu00f4 nghu0129au201d tru00ean tay cu1ee5.

Nhu1eefng ai vu00f4 tu00ecnh chu1ee9ng kiu1ebfn nhu1eefng cu1ea3nh tru00ean, su1ebd u0111u1ec1u cu1ea3m thu1ea5y nu1eb7ng lu00f2ng. Mu1ed9t mu00f9a Trung thu khu00f4ng tru1ecdn vu1eb9n...

Hou00e0i Nam

Tuesday, 20 May 2008

Hà Nội & Hà Tây trước giờ bấm nút (May 21, 2008)



img

(Tháp Rối nước- Chùa Thầy- Quốc Oai- Hà Tây)

Hà nội- another megacity?

img

img

(không ảnh Mexico Megacity)

img

img

img

img

img

img

img

img

img

img

img

img

img

img

img

img

Hội trường Ba Đình đã thuộc về dĩ vãng

img

Chùa Hương- Hà Tây

Sunday, 18 May 2008

Giai điệu tháng 5 (May 19, 2008)



Nhân dịp sinh nhật 118 của Hồ Chủ tịch, nghe tiếp những giai điệu "Còn lại với thời gian":

1. Giai điệu tháng 5- Bài hát do nhạc sỹ Hoàng Vân sáng tác vào năm 1990 nhân dịp kỷ niệm sinh nhật lần thứ 100 của Hồ Chủ tịch. Trình bay: Dàn nhạc và Hợp xướng Đài TNVN, các NSƯT Thúy Lan và Phan Muôn lĩnh xướng.

2. Hồ Chí Minh giai điệu 4 mùa- Bài hát nằm trong Tổ khúc Dáng đỏ Việt Nam của các nhạc sỹ Trần Chung, Cát Vận và Vũ Thanh. Nghệ sỹ Tiến Thành hát cùng tốp nữ vocals và Dàn nhạc Đài Tiếng nói Việt Nam (tháng 5/1982)

***

Thursday, 15 May 2008

Vietnam's quest for role models (May 15, 2008)



Trong loạt bài giới thiệu về Việt Nam đăng trong số tháng 4/2008 của tạp chí The Economist, bài viết dưới đây có thể được đánh giá là một cái nhìn khái quát, súc tích và thú vị về Việt Nam. Bằng những đúc kết từ kinh nghiệm thực tế đã và đang diễn ra ở Việt Nam, thông qua những ẩn dụ và so sánh đơn giản nhưng thuyết phục, bài báo thể hiện một cái nhìn tích cực về một Việt Nam đang cố gắng vươn lên mà không hề gây ra cảm giác về một bài báo PR theo đơn đặt hàng, và lại càng khác so với thể loại báo chí cổ động, tuyên truyền thường thấy. Có lẽ thú vị nhất là sự liên tưởng của tác giả giữa Đạo Cao Đài ở miền Nam Việt Nam với chính sách đối ngoại của Việt Nam, cũng như các lập luận mà tác giả sử dụng để phân biệt Việt Nam với Trung Quốc.
.
***
Dưới đây là bản dịch sang tiếng Việt của Thông tấn xã Việt Nam. Bản dịch này khá sát với bản gốc, tuy cần cải thiện thêm một vài chi tiết nhỏ. Ví dụ, một câu rất đắt trong bài là "Cao Dai's sunny, ecumenical message chimes well with Vietnam's foreign policy of seeking “friends everywhere”" đã được dịch hết sức đại khái và mờ nhạt. Nó nên được dịch là thông điệp lạc quan, mang tính đoàn kết giữa các tôn giáo và tín ngưỡng của Cao Đài rất phù hợp với chính sách đối ngoại "làm bạn với tất cả" của Việt Nam. Hay như, "emulate Deng Xiaoping's market socialism" phải hiểu là "bắt chước", "học tập", hoặc "sao chép"... chứ không phải là ganh đua. Hoặc người dịch lược cụm từ "pursued half-heartedly" trong câu "Vietnam had a two-child policy, pursued half-heartedly", khiến cho câu tiếng Việt trở nên không còn ấn tượng. Nên giữ nguyên gốc và dịch là Việt Nam có chính sách mỗi gia đình có hai con, nhưng chỉ áp dụng nửa vời/ không toàn tâm toàn ý. Hoặc cụm từ "the Great Firewall of China" là cách chơi chữ của tác giả, nói đến tường lửa ở Trung Quốc, nhưng dùng hình ảnh liên tưởng tới một Vạn lý Trường thành trong internet...
.
Việt Nam tìm kiếm mô hình quốc tế điển hình
.
Tiếng chuông ngân lên vào giữa trưa trong một điện thờ sơn phủ sặc sỡ của giáo phái Cao Đài cách Thành phố Hồ Chí Minh 100 km, nơi hàng trăm tín đồ trong trang phục áo choàng sặc sỡ và khăn xếp lòe loẹt đang xếp hàng tiến vào. Họ ngồi xếp bằng giữa những hàng cột sơn màu hồng đắp nổi những con rồng hai mầu xanh và trắng chạm khắc tinh xảo. Khắp xung quanh họ là những biểu tượng của giáo phái này - con mắt thánh: Quang cảnh trông tựa như sự pha trộn giữa một ngôi chùa ở Trung Quốc, một thánh đường Hồi giáo và một nhà thờ Thiên chúa giáo với một chút giống như Thành phố Ngọc Lục Bảo trong câu chuyện huyền bí Wizard of Oz.

Cao Đài, một tôn giáo trong nước mang tính hòa hợp của Việt Nam, pha trộn giữa đạo Phật, đạo Lão, đạo Cơ đốc, đạo Hồi và những tôn giáo khác, giáo huấn rằng tất cả những niềm tin là sự biểu thị của "cùng một chân lý". Giáo phái này được sáng lập vào năm 1926 bởi Ngô Văn Chiêu, một công chức nhà nước. Đến những năm 40, Cao Đài đã phát triển thành một lực lượng mạnh có quân đội riêng. Giáo phái này từng ủng hộ sự chiếm đóng của Nhật Bản và đôi khi cả với chế độ thân Mỹ ở miền Nam Việt Nam, vì thế sau năm 1975 Cao Đài bị những người cộng sản kiềm chế. Đến nay, khi chính phủ xóa bỏ những hạn chế tôn giáo, Cao Đài đã quay được sự ưa chuộng trở lại mặc dù vẫn phải chịu sự kiểm soát chặt chẽ. Tháng 2/2008, các thành viên của Ủy ban Tôn giáo Chính phủ đã tham dự một buổi hành lễ cùng 200.000 tín đồ Cao Đài tại một điện thờ lớn.

Sự phát triển trở lại của đạo Cao Đài đi kèm với chính sách đối ngoại của Việt Nam mong muốn "làm bạn với tất cả các nước". Nói một cách rộng hơn, niềm tin tôn giáo phản ánh đặc điểm tinh hoa của dân tộc Việt Nam, đó là tìm kiếm những khuôn mẫu tiêu biểu, sau đó tìm cách đưa những nét nổi bật của mình vào trong những khuôn mẫu đó theo cách thức phù hợp của Việt Nam. Đặc điểm này đã xuất hiện một cách tự nhiên ở một đất nước từng bị xâm chiếm và đô hộ bởi quá nhiều thế lực ngoại bang. Hệ thống luật pháp của Việt Nam hiện nay chủ yếu dựa trên những nguyên tắc pháp lý thuộc Pháp, nhưng lại có những thay đổi để phù hợp với các mô hình của Trung Quốc và Liên Xô cũ. Khi Việt Nam còn nằm dưới sự che chở của Liên Xô trong suốt thời kỳ Chiến tranh Lạnh, họ đã bắt chước mô hình kinh tế chủ nghĩa tập thể của nước này và để lại những hậu quả thảm khốc. Tiếp theo đó, Việt Nam lại ganh đua với mô hình chủ nghĩa xã hội thị trường của Đặng Tiểu Bình. Gần đây, họ lại được thuyết phục bởi các đặc điểm trong mô hình tăng trưởng xóa đói giảm nghèo của các cơ quan Liên Hợp Quốc và Ngân hàng Thế giới cũng như các lý thuyết nền tăng của hệ thống phúc lợi xã hội ở các nước châu Âu.


Dấu ấn Trung Quốc

Những phát triển gần đây cho thấy Việt Nam đáng được xem là một Trung Quốc thu nhỏ khi mà cả hai nước đều được lãnh đạo bởi những người cộng sản tiểu tư bản hăng hái, nhưng giữa họ có sự khác biệt. Một nhà ngoại giao ở Hà Nội từng làm việc ở Bắc Kinh cho rằng "mọi thứ ở đây (Việt Nam) đều có chừng mực hơn ở Trung Quốc". Việt Nam ít thô bạo hơn đối với những người bất đồng chính kiến so với Trung Quốc và "răng nanh và móng vuốt" của chủ nghĩa tư bản ở đây cũng ít bị nhuộm đỏ hơn. Dịch vụ y tế và giáo dục đã thay đổi để thành công hơn khi chuyển đối sang kinh tế thị trường. Sự kiểm soát của Việt Nam, giống như ở Trung Quốc, chính là những hạn chế nghiêm ngặt, tuy nhiên, số lượng người sử dụng Intemet có thể truy cập vào các trang web ở nước ngoài ngày càng nhiều hơn: người sử dụng Internet Việt Nam không bị chặn bởi bức "Tường lửa khổng lồ" như ở Trung Quốc.

Trong khi Trung Quốc nằm dưới sự lãnh đạo xuyên suốt và rõ ràng của một nhà lãnh đạo tối cao - Hồ Cẩm Đào, người nắm giữ hai chức vụ Tổng Bí thư Đảng Cộng sản và Chủ tịch nước - thì Việt Nam có sự lãnh đạo tập thể. Ba trụ cột gồm Chủ tịch nước, Tổng bí thư Đảng và Thủ tướng phải đạt được sự đồng thuận cùng với vai trò ngày càng gia tăng của Quốc hội độc lập và các lực lượng quần chúng khác, đồng thời tránh làm xáo trộn nhóm anh hùng cựu chiến binh trong các cuộc chiến tranh giành độc lập của Việt Nam vẫn đang còn sống. Lãnh đạo Trung Quốc có thể ra lệnh phá hủy các dự án công trình công cộng bất chấp những hậu quả. Ngược lại, quá trình ra quyết định ở Việt Nam có vẻ như "hợp tình hợp lý hơn".

Trung Quốc áp dụng nghiêm ngặt "chính sách một con"; Việt Nam có "chính sách hai con". Trong khi dân số Trung Quốc đang già đi thì thế hệ trẻ em sinh sau chiến tranh ở Việt Nam đang bước vào độ tuổi sung sức nhất, tăng trưởng kinh tế nhanh cũng đã tạo thêm nhiều công ăn việc làm cho tất cả mọi người. Giám đốc ngân hàng HSBC tại Việt Nam, Tom Tobin nhận xét rằng trong một hoặc hai thập niên tới, trong khi đa phần dân số của thế giới già đi nhanh chóng, lớp thanh niên Việt Nam vẫn sẽ ở giai đoạn sung sức nhất trong sự nghiệp của họ.

Trung Quốc vẫn là một mô hình tiêu biểu kết hợp giữa các cải cách thị trường với tư tưởng cộng sản chủ nghĩa, cho dù đa số người Việt Nam phải miễn cưỡng thừa nhận rằng họ đang bắt chước kẻ thù ngàn năm của họ. Tuy nhiên, đảng cầm quyền Việt Nam cũng hướng tới sự giàu có của Singapore - tuy danh nghĩa là một nền dân chủ thị trường tự do nhưng thực tế là một quốc gia một đảng, nơi chính quyền vẫn kiểm soát những cấp độ chủ đạo của nền kinh tế. Ví dụ, Việt Nam đã xây dựng mô hình giống như tập đoàn Temasek - Công ty đầu tư Singapore quản lý cổ phần của nhà nước tại các doanh nghiệp bán tư nhân. Rõ ràng là Việt Nam quá lớn và quá phi tập trung hóa để có thể bắt chước mô hình của nước Singapore nhỏ bé, tuy nhiên, Đảng Cộng sản hy vọng rằng họ sẽ đúc kết được những kinh nghiệm của Đảng Hành động Nhân dân Singapore (PAP) thuyết phục cử tri tiếp tục chấp nhận vai trò lãnh đạo của họ như cái giá của sự thịnh vượng. Giống như PAP, Đảng Cộng sản Việt Nam tìm kiếm cơ hội thu hút những nhân tài và đầu tư cho các nhân sự nội bộ trong giai đoạn đầu này.

Nhận thức được giáo dục cao và cải tiến khoa học đã là những nhân tố then chốt làm nên sự giàu có của Nhật Bản, Hàn Quốc và Đài Loan, Việt Nam đang khuyến khích các tập đoàn công nghệ cao nước ngoài và mời gọi những nước giàu xây dựng các trường đại học, các cơ sở đào tạo trên đất nước họ. Một trường đại học Australia, Đại học Công nghệ Hoàng gia Melbourne (RMIT) đã mở các cơ sở đào tạo ở Thành phố Hồ Chí Minh và Hà Nội. Một trường đại học của Đức và một số trường cao đẳng công nghệ khác của Hàn Quốc cũng đang có kế hoạch thành lập. Trong khi đó, các gia đình Việt Nam, từ Thủ tướng, đang gửi con em đi học nước ngoài.

Vậy thì, nền kinh tế dung hợp của Việt Nam sẽ theo đuổi mô hình nào? Bởi vì Việt Nam đang tìm kiếm cơ hội xây dựng các tập đoàn kinh tế quốc gia mạnh, họ chưa biết chắc nên theo đuổi mô hình "keiretsu" của Nhật Bản, "chaebol' của Hàn Quốc hay mô hình các tập đoàn chuyên sâu trong một lĩnh vực kinh doanh chủ chốt kiểu Anh. Có lẽ họ sẽ cóp nhặt những gì tinh túy nhất từ những mô hình này. Nhưng, Tony Salzman, một doanh nhân người Mỹ ở Việt Nam lại lo ngại về mối đe dọa khi "râu ông nọ cắm cằm bà kia!"
***
Dưới đây là bản dịch sang tiếng Pháp của TMH. Bản dịch này lược bỏ đoạn văn đầu vì không có nội dung phân tích:

La quête des modèles au Vietnam

Le Caodaïsme (Cao-Dai en vietnamien signifie « être suprême »), religion syncrétiste qui n’existe qu’au Vietnam, mélange le Confucianisme, le Bouddhisme, le Taoïsme, le Christianisme, l’Islam et d’autres religions en enseignant que toutes les fois représentent des manifestations d’une « même vérité ». Cette religion a été établie en 1926 par un fonctionnaire vietnamien. Dans les années 1940 il était devenu une force puissante possédant sa propre armée privée. Il a appuyé l’occupation japonaise et parfois le régime proaméricain du Vietnam du Sud. Il a été, donc, réprimé par les communistes après 1975. Aujourd’hui, comme le gouvernement est moins sévère envers des religions, le caodaïsme a repris la faveur, quoiqu’il soit strictement contrôlé. En février, des responsables du comité des affaires religieuses du gouvernement ont rejoint 200 mille caodaïstes dans un rituel effectué au grande temple caodaïste, à environ 100 km de Saigon.

Le message œcuménique du caodaïsme s’accorde bien avec la politique extérieure de « chercher des amis partout » du Vietnam. Plus globalement, la foi reflète un trait fondamentalement vietnamien : chercher des modèles et puis mêler les meilleurs aspects d’un certain nombre d’entre eux dans quelque chose d’uniquement commode pour le pays.

Cela peut arriver à un pays qui a été occupé et influencé par tant de puissances étrangères. Le système juridique vietnamien se base essentiellement sur les principes napoléoniens mais avec de petits morceaux adaptés des modèles chinois et soviétiques. Lorsque le Vietnam était sous l’aile de l’Union soviétique pendant la guerre froide, il a calqué son économie sur le modèle collectiviste, ce qui a entraîné des conséquences désastreuses. Ensuite, il a émulé le socialisme de marché de Deng Xiaoping. Plus récemment, il a greffé des éléments des modèles de la croissance anti-pauvreté initiés par la Banque Mondiale et par des agences onusiennes. Le pays a également copié les rudiments d’un état de bien-être pratiqué en Europe.

Il est tentant de voir le Vietnam comme étant une mini Chine car tous les deux pays sont dirigés par des communistes ardemment capitalistes, mais il y a des différences. Un diplomate étranger qui servait à Pékin dit que « tout est plus modéré ici qu’en Chine ». Le Vietnam est un peu moins sévère envers des dissidents que la Chine et son capitalisme est moins sauvage. Ses services de la santé et de l’éducation se sont adaptés avec plus de succès à la transition à une économie de marché. Bien que la presse au Vietnam, comme en Chine, soit strictement contrôlée, les nombres croissants d’internautes au Vietnam ont l’accès à la plupart des sites web étrangers. Il n’y a pas un équivalent vietnamien pour le Grand Pare-feu de Chine.

La Chine est dirigée de haut en bas et un homme est clairement le leader suprême- Hu Jintao, qui est à la fois chef du parti communiste et président de l’Etat, tandis que le Vietnam maintient un leadership consensuel. Son triumvirat comprenant le président, le chef du parti et le premier ministre doit aboutir aux accommodations avec une assemblée nationale qui est de plus en plus indépendante et avec une foule d’autres forces, ainsi qu’éviter de fâcher de nombreux héros survivants des guerres d’indépendance du pays. Le leadership de Chine peut s’ingérer dans des projets des travaux publics quelles que soient les conséquences. Par contraste, le processus décisionnel au Vietnam peut sembler terriblement lent mais aussi plus équitable.

La Chine a strictement appliqué la politique de l’enfant unique ; le Vietnam a eu la politique de deux enfants qui a été suivie sans conviction. La population de Chine a déjà vieilli alors que les personnes du baby-boom post-guerre au Vietnam sont en train d’entrer dans leur apogée et que la croissance économique rapide a donné des emplois à eux tous. Tom Tobin, chef de HSBC au Vietnam note que dans une ou deux décennies, le moment où la plupart du reste du monde vieillira rapidement, les personnes du baby-boom au Vietnam seront dans la phase la plus productive de leurs carrières.

La Chine demeure le modèle le plus évident pour la combinaison entre des réformes de marché et l’idéologie communiste, bien que la majorité des Vietnamiens préféreraient ne pas admettre qu’ils ont calqué leur système sur le modèle de leur ancien ennemi. Certes, le parti dirigeant du Vietnam compte également sur Singapour, un pays riche qui est nominalement une démocratie de marché libéral mais, dans la pratique, un état à parti unique dont le gouvernement contrôle les secteurs pivots de l’économie. Par exemple, le Vietnam a créé une copie carbone de Temasek, une agence d’investissement singapourienne, pour garder ses participations dans les sociétés qui sont en partie privatisées .

Evidemment, le Vietnam est trop gros et trop décentralisé pour pouvoir se calquer sur le petit Singapour. Cependant le parti communiste du Vietnam espère jouer le même tour que celui du Parti d’Action du Peuple (PAP) de Singapour en convainquant les électeurs d’accepter sa direction continue comme le prix pour la prospérité. Comme le PAP, les communistes vietnamiens cherchent à recruter des ambitieux universitaires ainsi que des penseurs naissants dans leur petit groupe à un stade précoce.

Notant que l’enseignement supérieur et l’innovation scientifique sont clés à la richesse pour le Japon, la Corée du Sud et Taiwan, le Vietnam courtise des sociétés de haute technologie étrangères et invite des pays riches à ouvrir des universités et des installations de formation sur son territoire. L’Institut Royal de la Technologie de Melbourne a déjà ouvert ses campus ultramodernes à Ho Chi Minh ville et à Hanoi. Une université allemande et plusieurs collèges coréens ont déjà été planifiés. Entre temps, des familles vietnamiennes, de celle du premier ministre vers le bas, envoient actuellement leurs enfants à l’étranger pour faire leurs études.

Alors, quelle forme l’économie syncrétiste du Vietnam va-t-elle prendre ? Comme le pays cherche à construire des sociétés nationales fortes, il n’est pas encore sûr s’il va se modeler sur le keiretsu japonais, le chaebol coréen ou les compagnies anglo-saxonnes qui se concentrent sur leurs affaires centrales. Peut-être se débrouille-t-il pour prendre les meilleurs morceaux de chaque modèle. Toutefois, Tonly Salzman, homme d’affaires américain au Vietnam, s’inquiète du danger du « col qui ne va pas avec les manchettes ».

***

Bản gốc tiếng Anh :

VIETNAM

A bit of everything

Apr 24th 2008

From The Economist print edition

Vietnam's quest for role models

A BELL chimes at noon in the pastel-coloured Cao Dai Grand Temple, about 100km (63 miles) from Ho Chi Minh City, and hundreds of worshippers in coloured robes and a variety of headgear file in. They sit cross-legged among pink columns with carvings of gaudy green-and-white dragons. All around them is their religion's symbol, the all-seeing eye. The place looks like a cross between a Chinese temple, a mosque and a Catholic church, with a touch of the Wizard of Oz's Emerald City.

Cao Dai, Vietnam's syncretistic home-grown religion, mixes Buddhism, Taoism, Christianity, Islam and other religions, teaching that all faiths are manifestations of “one same truth”. The religion was founded in 1926 by Ngo Van Chieu, a government official. By the 1940s it had become a powerful force, maintaining its own private army. It supported the Japanese occupation and at times the pro-American South Vietnamese regime, so after 1975 it was repressed by the Communists. Now, as the government eases up on religion, Cao Dai is back in favour, albeit strictly controlled. In February members of the government committee for religious affairs joined 200,000 Caodaists for a grand ritual at the temple.

Cao Dai's sunny, ecumenical message chimes well with Vietnam's foreign policy of seeking “friends everywhere”. More broadly, the faith reflects a quintessentially Vietnamese trait: casting around for role models, then trying to meld the best aspects of several of them into something uniquely suited to Vietnam.

That may come naturally to a country that has been occupied and influenced by so many foreign powers. The Vietnamese legal system is based mainly on Napoleonic principles but with bits adapted from the Chinese and Soviet models. When Vietnam was under the Soviet Union's wing during the cold war, it copied its collectivist economic model, with disastrous results. Next, it emulated Deng Xiaoping's market socialism. More recently it has grafted on elements of the World Bank's and UN agencies' anti-poverty growth models and, increasingly, the rudiments of a welfare state along European lines.

China lite

It is tempting to view Vietnam as a mini-China, since both countries are run by ardently capitalist communists, but there are differences. A foreign diplomat in Hanoi who used to serve in Beijing says that “everything here is more moderate than in China.” Vietnam is a bit less harsh with dissidents than China, and its capitalism too is less red in tooth and claw. Its health and education services have adapted more successfully to the transition to a market economy. Its press is strictly controlled, as in China, but the growing numbers of internet surfers have free access to most foreign news websites: there is no Vietnamese equivalent of the Great Firewall of China.

Whereas China is led from the top down and one man is clearly the paramount leader—Hu Jintao, who is both the head of the Communist Party and the state president—Vietnam has a consensual leadership. Its triumvirate of president, party boss and prime minister must reach accommodations with an increasingly independent national assembly and a host of other forces, and avoid upsetting the many surviving heroes of Vietnam's independence wars. China's leadership can ram through public-works projects regardless of the consequences. In contrast, the decision-making process in Vietnam can seem painfully slow—but also more equitable.

China enforced a one-child policy harshly; Vietnam had a two-child policy, pursued half-heartedly. Whereas China is already greying, Vietnam's post-war baby-boomers are now coming into their prime, and rapid economic growth has been providing jobs for them all. HSBC's chief in Vietnam, Tom Tobin, notes that in a decade or two, when much of the rest of the world will be ageing rapidly, Vietnam's boomers will still be at the most productive phase of their careers.

China remains the most obvious role model for combining market reforms with communist ideology, though most Vietnamese would be loth to admit to copying their ancient foe. But Vietnam's ruling party also looks to rich Singapore, nominally a free-market democracy but in practice a one-party state whose government still controls the commanding heights of the economy. For example, Vietnam has created a carbon copy of Temasek, a Singaporean investment agency, to retain its stakes in part-privatised firms.

Clearly Vietnam is too big and too decentralised to be able to copy tiny Singapore, but its Communist Party hopes to pull off the same trick as Singapore's People's Action Party (PAP), persuading the voters to accept its continued rule as the price of prosperity. Like the PAP, the Vietnamese Communists seek to recruit academic high-flyers and budding thinkers to their inner circle at an early stage.

Noting that higher education and scientific innovation were the keys to riches for Japan, South Korea and Taiwan, Vietnam is wooing foreign high-tech firms and inviting rich countries to set up universities and training facilities on its soil. An Australian university, the Royal Melbourne Institute of Technology, has already opened state-of-the-art campuses in Ho Chi Minh City and Hanoi. A German university and several South Korean technical colleges are planned. Meanwhile families from the prime minister's downwards are sending their youngsters to study abroad.

So what shape will Vietnam's syncretistic economy take? As the country seeks to build strong national companies, it is as yet unsure whether to model them on Japanese keiretsu, Korean chaebol or Anglo-Saxon companies that focus on their core business. Maybe it will manage to take the best bits of each model. But Tony Salzman, an American businessman in Vietnam, worries about the danger of “the collars not matching the cuffs”.

Friday, 29 February 2008

Hát cùng trời nước Hạ Long (February 29, 2008)



Hát cùng trời nước Hạ Long- Sáng tác: Tân Huyền

Với tiếng hát của NSƯT Tiến Thành (tháng 3/1982)

Theo Công ước Quốc tế 1972 mà Việt Nam là một trong những quốc gia thành viên, để một địa danh hay tài sản trở thành một Di sản Văn hóa thế giới (World Cultural Heritage) hoặc Di sản thiên nhiên thế giới (World Natural Heritage) hay Di sản hỗn hợp (mixed site hay Cultural Landscape) thì phải trải qua một quá trình hết sức công phu, tỉ mỉ và khó khăn, bao gồm các bước:

Bước 1 là di sản đó phải là Di sản quốc gia và năm trong Danh sách dự kiến (Tentative List) nộp trước cho UNESCO;

Bước 2 là lập hồ sơ khoa học đề cử với sự trợ giúp của các chuyên gia trên khắp thế giới;

Bước 3 là việc thẩm định hồ sơ do một cơ quan tư vấn độc lập (độc lập với cả quốc gia và độc lập với cả UNESCO)- đó là ICOMOS đối với các hồ sơ văn hóa & IUCN đối với các hồ sơ thiên nhiên. Sau khi thẩm định, cơ quan tư vấn này sẽ đưa ra khuyến nghị, nhận xét về việc đáp ứng các tiêu chí mà Công ước quy định của khu di sản. Khuyến nghị của ICOMOS và IUCN có giá trị vô cùng to lớn.

Bước 4 là việc phản biện và bảo vệ Hồ sơ đề cử đã được ICOMOSIUCN thẩm định trước Ủy ban Di sản Thế giới . Nếu được bảo vệ thành công, hồ sơ sẽ được Ủy ban di sản Thế giới thông qua và di sản đó trở thành Di sản thế giới.

Chú ý :

Ủy ban Di sản Thế giới căn cứ vào khuyến nghị của ICOMOS và IUCN, đồng thời căn cứ vào hệ thống các tiêu chí quy định trong Công ước 1972 và các văn bản hướng dẫn thực hành để thông qua Nghị quyết công nhận Di sản Thế giới.

Có 5 tiêu chí áp dụng cho các di sản văn hóa ; 4 tiêu chí áp dụng cho các di sản thiên nhiên. Có hai loại điều kiện là Điều kiện CẦN và Điều kiện ĐỦ để các di sản được công nhận. Chỉ cần đáp ứng 1 trong 4 tiêu chí (đối với thiên nhiên) hay 1 trong 5 tiêu chí (đối với văn hóa) là Di sản đã đáp ứng được điều kiện CẦN.

Tuy nhiên để đáp ứng điều kiện ĐỦ thì đối với các Di sản Thiên nhiên phải đáp ứng được tính toàn vẹn (Integrigty), tức là không bị xâm hại, không bị cắt xén và các Di sản Văn hóa thì phải đáp ứng được tính Chân thực (Authenticity), tức là nguyên gốc, không phải là đồ dởm, tân trang. Trong điều kiện ĐỦ này còn có một phần quan trọng nữa là Quốc gia đề cử phải trình bày thuyết phục trước Ủy ban Di sản Thế giới một Kế hoạch tổng thể nhằm Bảo tồn và Phát huy bền vững các giá trị Di sản.

Chúng ta có Quần thể Di tích Cố đô Huế (văn hóa), Vịnh Hạ Long (thiên nhiên), Đô thị cổ Hội An (văn hóa), Khu di tích Mỹ Sơn (văn hóa), và Vườn Quốc gia Phong Nha- Kẻ Bàng (thiên nhiên) là Di sản Thế giới một cách không đơn giản chút nào. Thời gian chuẩn bị hồ sơ kéo dài cả chục năm. Phải nhờ rất nhiều đến tài năng và tâm huyết của các chuyên gia và các nhà ngoại giao thì mới có được những gì chúng ta đang có.

Trong hai di sản thiên nhiên của chúng ta thì Hạ Long mới chỉ đáp ứng được 2 trên tổng số 4 tiêu chí, đó là tiêu chí về cảnh quan (được công nhận ngay từ lần đầu, chứng tỏ Hạ Long rất đẹp, Thế giới đã công nhận rồi) và tiêu chí về địa chất địa mạo (phải lần làm hồ sơ thứ 2, Hạ Long mới được công nhận theo tiêu chí này). Còn vườn Quốc gia Phong Nha Kẻ Bàng chỉ mới được công nhận theo tiêu chí địa chất địa mạo liên quan đến lịch sử hình thành trái đất, chứ chưa được công nhận về vẻ đẹp cảnh quan . Và nếu không có các nhà ngoại giao của Việt Nam thì con đường tới Di sản có lẽ còn dài và khó khăn hơn rất nhiều.

Trên thế giới hiện nay có tới 851di sản thiên nhiên và văn hóa thế giới đã được UNESCO công nhận. Trong đó CÓ NHỮNG DI SẢN ĐÁP ỨNG CÙNG LÚC TẤT CẢ CÁC TIÊU CHÍ. Nhưng không vì thế mà UNESCO phân biệt thức bậc hay lập các Top List. Cho nên không có 5 hay 7 hay 10 Di sản hàng đầu thế giới hay hạng bét của Thế giới.

Thế nhưng lại có những di sản bị đưa vào Danh mục các Di sản trong tình trạng nguy hiểm (List of World Heritage in Danger) và có nguy cơ bị đưa ra khỏi Danh mục Di sản Thế giới. Chuyện đó hoàn toàn dễ hiểu vì việc một di sản đáp ứng được 1 tiêu chí không có nghĩa là nó sẽ đáp ứng vĩnh viễn tiêu chí đó. Nhất là tính toàn vẹn và tính chân thực, một khi quốc gia không có kế hoạch phát huy đi kèm với bảo tồn thỏa đáng. Ngoài ra lý do thiên tai, địch họa cũng khiến một Di sản bị mất vị trí của mình. Việc này được UNESCO theo dõi sát sao và thường xuyên chất vấn các chính phủ cũng như trợ giúp họ cải thiện tình hình. Huế của chúng ta đã từng năm trong Danh sách nguy hiểm do lũ lụt. Phong Nha Kẻ Bàng vẫn thường xuyên phải báo cáo về cải thiện môi trường.

Vịnh Hạ Long vẫn còn tiềm năng để UNESCO công nhận về giá trị Đa dạng sinh học, cũng như những tiềm năng giá trị về lịch sử, văn hóa để UNESCO có thể công nhận dây là một Di sản Thế giới hỗn hợp- một Cultural Landscape của Thế giới (hiện thế giới chưa có nhiều loại di sản này). Tuy nhiên, UNESCO cũng vẫn lưu ý chúng ta về nguy cơ Hạ Long bị đe dọa bởi ô nhiễm môi trường do phát triển đô thị, công nghiệp, du lịch chưa được quản lý thật tốt dẫn tới nguy cơ phá vỡ cảnh quan và giá trị toàn vẹn của khu Di sản vô giá này.

Tôn vinh, khai thác các giá trị Di sản đi kèm với việc bảo tồn bền vững cho các thế hệ tương lai luôn là vếc-tơ hiệu quả nhất. Đây là một quá trình khoa học, bền bỉ, có chiến lược, có chương trình hành động cụ thể, có sự quản lý thống nhất của các cấp chính quyền cũng như dựa vào sự tham gia của toàn thể cộng đồng. Vì thế công việc này hoàn toàn không đơn thuần là vấn đề tình cảm nhất thời, mang tính phong trào...