Monday 2 November 2009

SAO MAI 2009- Ứng xử với dòng nhạc thính phòng cổ điển như thế nào cho phù hợp?

Đêm chung kết Sao Mai 2009 khu vực phía Bắc vừa khép lại. Vòng chung kết khu vực Miền Trung, Tây Nguyên và khu vực phía Nam sẽ diễn ra trong hai tuần tới đây. Các thí sinh có may mắn được vào vòng chung kết toàn quốc sẽ gặp nhau tại thành phố Tuy Hòa trong một vài tuần tới.

Vẫn còn quá sớm để có những nhận xét tổng quát về giải Sao Mai năm nay. Tuy nhiên cảm giác “không đã cơn khát” hay “thiếu sự bùng nổ” trong dòng thính phòng của vòng thi vừa qua là cảm giác chung của nhiều khán, thính giả trung thành với dòng nhạc này. Việc lẫn lộn giữa thính phòng với nhạc nhẹ, cách hiểu hơi dễ dãi về cái gọi là bán cổ điển hay thính phòng trữ tình (semi-classic), sự thiếu vắng các ca khúc mang tính thính phòng đích thực trong khi lại giữ thái độ khắt khe thái quá với việc trình diễn những tác phẩm thính phòng kinh điển, đã đặt ra những vấn đề về xu hướng ứng xử với dòng nhạc này của tất cả các đối tượng liên quan, từ giới chuyên môn cho tới công chúng thưởng thức. Phải chăng chúng ta chưa định hình được một phép ứng xử phù hợp với dòng nhạc này trong khuôn khổ một cuộc thi?

Theo dõi giải Sao Mai trong những năm vừa qua, không ai có thể phủ nhận một điều là nhiều ca khúc được coi là các tác phẩm kinh điển của thanh nhạc Việt Nam, sau nhiều năm “đo ni đóng giày” với các giọng hát đi cùng năm tháng và làn sóng điện của đài Tiếng nói Việt Nam, đã có cơ hội được tái sinh và trở lại đời sống văn nghệ một cách tự nhiên và sống động như Tiếng đàn bầu, Tôi là người thợ lò, Người Hà Nội v.v. Nhưng sau đó không lâu, cảm giác nhàm chán bắt đầu xuất hiện trong những người theo dõi cuộc thi, nhất là khi cuộc thi này đã trở thành một sinh hoạt định kỳ với khoảng cách giữa hai cuộc thi không quá xa và với số lượng thí sinh tham dự không ngừng tăng lên. Không chỉ dừng lại ở đối tượng là công chúng thưởng thức, cảm giác nhàm chán này dường như lan sang cả giới chuyên môn, những theo dõi, đánh giá và bình luận về cuộc thi, khiến họ trở nên khắt khe với các thí sinh, thể hiện qua những nhận xét thiếu sự hào phóng, thiếu thỏa mãn và luôn so sánh, hoài cổ của họ.

Đối với các thí sinh, dường như họ cũng thấy “ngại” các ca khúc này và bắt đầu chuyển hướng, tìm kiếm sự thành công trên mảnh đất mới hơn với các tác phẩm rất mới mang tính bán cổ điển, cổ điển pha trữ tình. Mảnh đất mới ấy đã giúp Lê Anh Dũng đăng quang một cách ngoạn mục trong giải Sao Mai 2007. Tuy nhiên, đến vòng chung kết giải Sao Mai 2009 khu vực phía Bắc, khán giả bắt đầu lo ngại về sự bỏ bê dòng nhạc thính phòng kinh điển và việc lạm dụng dòng bán cổ điển, trữ tình. Việc không thể xác định nổi dòng nhạc mà hai trong số ba ca sỹ thuộc Top-3 của dòng thính phòng đã chọn trong đêm chung kết miền Bắc vừa qua là nhạc nhẹ hay thính phòng, và việc thí sinh Lê Xuân Hảo, một thí sinh hát thính phòng bằng giọng hát và phong cách hết sức chỉn chu và truyền thống tiếp tục nhận được những đánh giá hết sức khắt khe của các chuyên gia, càng cho thấy đã đến lúc cần xem lại cách chúng ta đang ứng xử với dòng nhạc này.

Có người cho rằng, Sao Mai và những người tổ chức cuộc thi này biết thích nghi với công chúng. Quả là trong một cuộc thi mà tính chất quảng bá với công chúng lớn như Sao Mai thì việc lắng nghe phản hồi của dư luận là việc làm cần thiết. Thực tế, ban tổ chức Sao Mai đã thể hiện sự nhạy bén và chú trọng của mình đối với thị hiếu của số đông khán thính giả qua việc phát triển thêm giải Sao Mai Điểm Hẹn, được tổ chức trong các năm chẵn, nhằm phục vụ nhu cầu dự thi và phát triển các phong cách khác nhau của riêng dòng nhạc nhẹ, cũng như tạo ra sự tương tác nhất định giữa cuộc thi và công chúng. Tuy vậy, với những dòng nhạc có tính chất học thuật, đòi hỏi tính chuyên nghiệp cao như dòng thính phòng thì những cuộc thi như Sao Mai còn có một vai trò khác rất quan trọng, đó là hướng dẫn thị hiếu, phát triển những xu hướng thẩm mỹ phù hợp cho công chúng. Nói cách khác, công chúng cũng cần được bổi bổ kiến thức và trở nên “chuyên nghiệp” hơn sau những cuộc thi như thế này. Khác với Sao Mai Điểm Hẹn, Ban tổ chức giải Sao Mai không nên chịu sự tác động bởi đòi hỏi của thị trường và càng không nên thỏa hiệp những giá trị đã được khẳng định, gắn liền với dòng nhạc kén người nghe như dòng nhạc truyền thống, thính phòng.

Có lẽ với các ca khúc đã được coi là tác phẩm kinh điển, trên thế giới cũng như ở Việt Nam, thì không bao giờ có cái gọi là “nhàm chán”. Thậm chí việc “làm mới” vốn được nhiều người coi là một tiêu chí trong sáng tạo nghệ thuật nói chung thì cũng là một việc làm cần tính toán kỹ hơn khi ứng xử với dòng nhạc đã được coi là kinh điển, tương tự như việc người ta không nên khuyến khích “làm mới” các di tích lịch sử. Nghệ sỹ Nhân dân Trung Kiên, một trong ba khách mời tại trường quay S1 của VTV trong đêm chung kết vừa qua nhiều lần nhắc tới sự cần thiết phải có sự hội tụ đầy đủ cả giọng hát lẫn cách chọn bài, xử lý ca khúc và phong cách trình diễn dòng nhạc thính phòng. Âu đó cũng là tiêu chí chung cho sự thành công của bất kỳ tiết mục thanh nhạc nào. Tuy nhiên, phải thừa nhận rằng, với dòng nhạc thính phòng thì tiêu chí giọng hát phải được chú trọng hàng đầu. Cùng với giọng hát là việc dàn dựng, hòa âm, phối khí, sử dụng dàn nhạc sao cho hợp lý, không thể để tình trạng “xập xình” quá đơn giản và lộ liễu như trong đêm chung kết miền Bắc vừa qua.

Với những ca khúc kinh điển của Việt Nam mà các thí sinh hay sử dụng để dự thi Sao Mai trong nhiều năm qua, có thể nói hát thế, chứ hát nữa, hát mãi cũng chưa thể coi là đủ, đơn giản là vì thời nào cũng cần tìm ra các nghệ sỹ tên tuổi gắn với dòng ca khúc đó. Người nghe và xem cũng không nên quan niệm cứng nhắc rằng các thế hệ sinh sau đẻ muộn không thể hát lại các ca khúc đó hay bằng các thế hệ trước. Nếu như thế hệ trước có lợi thế là được tận hưởng hơi thở của thời đại thổi vào từng lời ca tiếng hát, thì thế hệ ngày nay lại có lợi thế về cơ sở vật chất, có điều kiện học hành và luyện tập bài bản, khoa học. Chỉ cần thổi vào họ ngọn lửa đam mê với dòng nhạc hàn lâm này là họ có thể làm nên chuyện lớn. Trọng Tấn đã “cover” lại Tiếng đàn bầu, Những ánh sao đêm, Việt Hoàn và Anh Thơ với Gửi em ở cuối sông Hồng, Đăng Thuật và Thu Huyền với Người đi xây hồ Kẻ Gỗ, Tân Nhàn với Xa khơi, hay bộ CD Hoa lửa và Vinh Quang Việt Nam của Hồng Vy chẳng phải là những bằng chứng rất thuyết phục đó sao?

Cũng về cách ứng xử với dòng nhạc thính phòng, cần phải xem lại tình trạng “khoanh vùng” do vô thức hay cố ý (?) vẫn tồn tại bấy lâu nay trong giải Sao Mai. Trong kho tàng ca khúc của nền tân nhạc Việt Nam đâu chỉ có Tiếng đàn bầu, Tôi là người thợ lò, Trên đỉnh Trường Sơn ta hát … mà còn những Hoa Mộc Miên (Huy Du), Từ trên đỉnh núi (Nguyên Nhung), Như sóng về trùng dương (Hoàng Dương) và hàng trăm ca khúc như thế. Chỉ riêng việc Lê Anh Dũng tìm ra Người con gái Việt của Lân Tuất và Nhớ đàn xe nước của Vân Đông để dự thi năm 2007 đã xứng đáng để thí sinh này vượt trội so các thí sinh khác. Việc tìm kiếm và chọn bài của Lê Anh Dũng lẽ ra cần được các bạn thí sinh năm nay tham khảo nhiều hơn nữa. Ngoài ra, cũng cần thay đổi nhận thức cho rằng dòng nhạc thính phòng kinh điển của Việt Nam chỉ bao gồm các ca khúc có tính tráng ca, anh hùng ca, và cần khuyến khích các thí sinh mạnh dạn khai thác các tác phẩm tiền chiến kinh điển đậm chất thính phòng như Thiên Thai của Văn Cao, hay một số tác phẩm của Phạm Duy, Cung Tiến, Hoàng Dương v.v.

Từ hơn mười năm nay, giải Sao Mai, được tổ chức hai năm một lần, đã và đang là một sân khấu chuyên nghiệp, có thương hiệu, nhất là có úy tín trong việc vực dậy, bảo tồn và phát triển nền ca khúc truyền thống của Việt Nam, đồng thời khám phá và nuôi dưỡng các tài năng thanh nhạc của nước nhà. Với sứ mạng vừa gìn giữ truyền thống, vừa bắt nhịp với hơi thở của thời đại, hy vọng Sao Mai sẽ không dễ dàng thỏa hiệp các giá trị vốn làm nên bản sắc của cuộc thi uy tín này.

TMH (2/11/2009)

Thursday 28 May 2009

His final battle (May 29, 2009)

img

By Tom Fawthrop (The First Post)

In 1954, General Vo Nguyen Giap masterminded a harrowing epic 57-day siege which brought about the crushing defeat of the French empire in Indochina. It was a victory which destroyed the assumption of Western invincibility and inspired anti-colonial struggles all over the world. During the US war Giap was again commander-in-chief, but this time he assumed extra responsibility as the defence minister in Ho Chi Minh's government of North Vietnam.

The amazing supply-line carved out of a 2,000 mile long trail through dense jungle and mountains dubbed the "Ho Chi Minh Trail" was Giap's Initiative. It was to become one of the most bombed roads in the history of warfare. The General also masterminded the final offensive in Spring 1975.

Giap is widely considered to be one of the greatest military leaders of the 20th century - all the more remarkable given that his background was entirely civilian - his early working years were spent as a teacher and a journalist. After the war hard-liners in control of the Vietnamese communist party were jealous of his international stature and intellectual abilities and the war hero was ejected from the politburo in 1982. In 1991 he retired as deputy prime minister.

The country's most famous soldier is still fighting. This time over the environment.

Now 97, physically frail but still mentally sharp, Giap lives with his wife in an old French colonial house in Hanoi, where he leads a modest existence. He rises at around 5am when he starts his day with breathing exercises before turning into RFI - Radio France International, before listening to the news on Vietnamese stations.

Domestic life is occasionally interrupted by the arrival of various visiting foreign and Vietnamese dignitaries who come to pay their respects. President Lula of Brazil, Hugo Chavez from Venezuela and the South Africa's Thabo Mbeki visited him last year. A number of US politicians have also been to see him, including Robert McNamara his counterpart in the Vietnam War in charge of US Defense Department.

Giap has largely retired from public office apart from holding several honorary roles in associations for Vietnam's war veterans and historians, but the country's most famous soldier is still fighting. This time the battle is over the environment.

The Vietnamese government, eager to keep up the impressive economic growth that was derailed by the global financial crisis, is committed to extracting an estimated 8 billion tonnes of bauxite, the ore which is essential to aluminum production.

Two-thirds of Vietnam's bauxite is to be found in the Central Highlands, a stunningly beautiful and fertile region of thickly forested mountains, coffee plantations and, some argue, an area of enormous eco-tourism potential. There are fears that open-cut mining will destroy vast areas of forest and crops leaving huge deposits of toxic sludge.

Despite Vietnam's long history of conflict with China which briefly invaded the country in 1979, the Chinese aluminum giant Chinalco has been granted a contract for one of the mines. But in January this year, General Giap sent an open letter calling on the government to halt the project.

Giap masterminded the siege of Dien Bien Phu, which crushed the French and destroyed the aura of Western invincibility
img

Giap's stature as a national hero, one-time confidante of late president Ho Chi Minh and one of Vietnam's few untainted politicians is undisputed and the Government realized that they couldn't dismiss him as a mere dissident. Moreover having actively helped Vietnam's ecologists back in the 1980s when he was deputy prime minister, Giap's green credentials are convincing.

According to the scientist, Nguyen Huu Ninh, who was part of a UN team awarded the 2007 Nobel Peace Prize for work on climate change, Giap has a real understanding of ecology. Moreover, "He was our first leader after the war to focus on environmental problems". He has long been fascinated by the green movement. In 1986 a professor returned from a trip to UK with a copy of Schumacher's 'Small is beautiful', one of the Movement's great works and gave it to Giap on a Friday evening; by Monday the General had finished it and was asking for more books on ecology.

Giap is still honoured by visiting dignitaries, including Hugo Chavez, president of Venezuela
img

So the letter from the 'Green General', which detailed the consequences of the mining proposals in terms of environmental damage, harm to ethnic minorities and even threat to national security, prompted an unprecedented protest, a rare event in what is still a one-party communist state. It is also rare in a one-party system for such a protest to be reported in the state-owned media. The general's intervention prompted 135 intellectuals to sign a petition to the Vietnamese National Assembly calling for a halt to the project.

In the face of the outcry, Prime Minister Nguyen Tan Dung, who had described the exploitation of the bauxite as "a major policy of the party and the state", felt he had no choice but to backtrack. Last month, after a hastily convened seminar on the environment, he agreed to scale back the development until a full assessment of the possible environmental impact could be made.

Giap is a national hero, confidante of late president Ho Chi Minh and one of Vietnam's few untainted politicians
img

Now opponents have questioned the mines' economic feasibility, given that bauxite processing requires a lot of water and access to cheap electricity, and Vietnam is facing shortages of both. In addition to the environmental concerns, some critics have complained about the presence of hundreds of Chinese workers in the strategic Central Highlands.

Amid the flurry of criticism, which was even joined by his Environment Minister, Dung has now frozen work on one bauxite mine, though he has permitted Chinalco to proceed with another.

General Giap may not win this battle outright but, as always, he is putting up a ferocious fight.

Monday 18 May 2009

Bác Hồ một tình yêu bao la (May 19, 2009)

1. Hai trích đoạn đặc biệt: Phần 1- NSND Thanh Hoa hát đơn ca cùng Dàn nhạc dây Đài TNVN năm 1980; Phần 2- NSND Thanh Hoa hát cùng Hợp xướng và Dàn bán cổ điển Đài TNVN năm 1982; Phối khí và chỉ huy: Nhạc sỹ Lê Đình Lực.

2. NSND Thanh Hoa hát Bác Hồ một tình yêu bao la với nhạc điện tử

3. NSND Thanh Hoa hát Bác Hồ một tình yêu bao la trong Con đường Âm nhạc: Thuận Yến & Khát Vọng (2007)

4. NSND Thanh Hoa hát Vầng trăng Ba Đình trong Con đường Âm nhạc: Thuận Yến & Khát vọng (2007)

Saturday 9 May 2009

Thời thanh niên sôi nổi (May 09, 2009)

песня о тревожной молодости - Thời thanh niên sôi nổi - dành cho 9-5

Thursday 30 April 2009

Tôi là người thợ (May 01, 2009)

Một bài hát hay, một giọng ca đẹp, một dàn nhạc nhà nghề ... dành cho ngày Lao động

Wednesday 29 April 2009

Tổ quốc yêu thương (April 30, 2009)

Sáng tác: Hồ Bắc

Ca sỹ: NSƯT Ái Vân

Pianist: Hoàng My

Wednesday 22 April 2009

Thành phố lúc rạng đông (April 23, 2009)

Bộ phim tài liệu màu hiếm hoi của Điện ảnh miền Bắc với những hình ảnh về Sài Gòn và miền Nam Việt Nam ngay sau ngày 30 tháng 4 năm 1975. Ngoại trừ lời bình của bộ phim với lời văn và cách nói phản ánh tư duy đặc thù của miền Bắc thời kỳ đó, đây là một bộ phim quý và hiếm của điện ảnh Việt Nam.

Phần 1

Phần 2

Phần 3

Phần 4

Phần 5 và hết

Friday 17 April 2009

Làng lúa làng hoa (April 17, 2009)

Tư liệu minh họa: Mùa xuân Làng lúa Làng hoa với tiếng hát của NSND Thanh Hoa trên sóng phát thanh Đài Tiếng nói Việt Nam tháng 1-1981.

Thành phố "đói" hoa

08:50' 16/04/2009 (GMT+7)

img- Một thành phố "Làng lúa làng hoa" qua giọng hát ngọt ngào của Thanh Hoa làm người nghe chợt nhớ về Hà Nội thuở nào. "Bên lúa, anh bên lúa, cánh đồng ven đê//Hồ Tây xanh mênh mông, trong tươi thắm nắng chiều//Làng em làng hoa, hoa thơm ngát bốn mùa//Hồ Tây đôi bên, trong tình yêu hoa lúa rộn ràng". Thế mà cư dân thành phố ấy từng ăn bo bo, nay tuy thừa gạo, nhưng lại "đói" hoa, mặt nước Hồ Tây không còn xanh nữa, đồng lúa cũng biến đi. Mới hiểu tại sao, vài cành hoa anh đào Nhật Bản mà thu hút mấy trăm ngàn người tới xem.

img
Hoa anh đào - Ảnh: Hiệu Minh

Tôi nhớ thời Hà Nội đi sơ tán, rất nhớ chi tiết trong một bài báo. Hồi đó không có điện thoại, internet, thư từ trong nước đi cả tháng mới đến. Bố mẹ đi khỏi thành phố, sợ con trai đi bộ đội về thăm bất chợt, để mẩu giấy trên cửa: “Bố mẹ và em sơ tán về Hưng Yên. Nếu con về, tìm chìa khóa dưới thảm chùi chân”. Ba tháng sau, gia đình quay về, trong nhà không mất mát thứ gì.

Hòa bình, nhà cao tầng lắp ghép được xây cao, soi bóng diễm lệ bên hồ Thành Công hay Giảng Võ. Những ban công xinh xắn để cư dân nhìn hoàng hôn buông xuống hay ngắm trăng lên.

Nhưng rồi sự bất an do những vụ ăn cắp ngày đêm gây ra. Khi cái áo, khi cái quần, rồi có kẻ ngang nhiên trèo qua ban công vào lấy hết đồ đạc quí. Những căn hộ sang trọng ấy phải thêm “chuồng cọp”. Sau này dân ta sáng kiến hơn, biến thành những gác xép, phòng nhô ra, thò thụt làm cho khu nhà lắp ghép nhếch nhác và bẩn thỉu.

Ngày nay, những ngôi nhà trên khu phố mới, càng giầu thì càng kín cổng cao tường. Kẽm gai mấy vòng tua tủa, mác nhọn hoắt trên các bờ tường, cắm mảnh chai sắc như dao cũng không ngoài mục đích ngăn trộm đột nhập mà trong ngôi nhà đó có thể là một thế giới riêng đẹp như mơ.

Tường cao che chắn những villa cho thấy quốc gia đang đi lên về kinh tế nhưng văn hóa có thể đã thụt lùi. Xã hội văn minh được đánh giá qua hàng rào sơ sài quanh nhà ở mang tính trang trí nhiều hơn là chống trộm.

img
Hồ Tidal Basin (Washington DC) vào mùa hoa anh đào - Ảnh: Hiệu Minh

Mấy hôm nay, “chuồng cọp” lại xuất hiện cả trong những sự kiện văn hóa. Tâm điểm lễ hội Nhật Bản ngày 12-4-2009 là 6 cây anh đào thật từ xứ Phù Tang cho dân ta chiêm ngưỡng. Người ta phải rào hoa, huy động tới 500 người bảo vệ. Nhìn sắc phục cảnh sát dưới bóng hoa anh đào thấy lo lắng thay cho một nền văn hóa đang xuống cấp.

Năm ngoái đã có chuyện cướp ở hội hoa. Năm nay rút kinh nghiệm, rào “mềm” và cảnh sát dầy đặc. Rất may, hoa héo, lá tàn và sắc phục nhà chức trách nên không thấy ai dám thò tay. Một người khiếm thị lấy tay thử, nhưng tội cho anh lại sờ vào hoa giả và bị lôi đi.

Thành phố no ăn nhưng lại “đói hoa” dù tiềm năng ấy có thừa. So sánh anh đào Nhật Bản và đào Nhật Tân, mỗi loài có một vẻ đẹp riêng và khó mà nói rằng hoa xứ người rực rỡ hơn ta. Tại sao hoa của họ lôi cuốn được hàng triệu người.

Ở nhiều nước, vườn hoa, phố hoa, công viên hoa hay kể cả hồ hoa trong thành phố được thiết kế tổng thể trong một môi trường kiến trúc chan hòa với thiên nhiên. Thêm vào đó là pháp luật chặt chẽ và văn hóa lâu đời được dung dưỡng, phát triển cùng với thế giới hiện đại. Mỗi cây mang đi trồng hay cánh hoa gửi đi triển lãm nước ngoài được nền văn hóa ngoại giao thâm trầm của quốc gia đó gửi gắm, được họ biến thành một thứ hoa đạo.

Hà Nội rất đẹp với những hàng cây cổ thụ xanh bốn mùa. Lò Đúc có hàng lim cao chót vót, cò về làm tổ, hàng Bông, hàng Nhuộm hoa bằng lăng tím, rồi dãy phượng vĩ đường Thanh Niên đỏ thắm mùa hè.

img
Đào núi Sapa - Ảnh: Photo.com.vn

Vườn đào Nhật Tân, nếu được giữ nguyên, không bị biến thành chung cư cao tầng thì vẻ đẹp không kém bất kỳ vườn hoa nào trên thế giới. Nếu xung quanh Hồ Tây được trồng đào, phượng vĩ, bằng lăng hay liễu rủ trên mặt nước trong xanh với không gian kiến trúc hài hòa ven bờ thì du khách cũng đến đông hàng triệu, không kém do với mùa anh đào bên Thượng Hải hay hồ Tidal Basin (Washington DC).

Hàng cây hoa lá ấy được trồng trong một thành phố có tổ chức, đường sạch đẹp thì người dân sẽ sống có văn hóa. Có lẽ đến lượt chúng ta mang hoa đi triển lãm. Biết đâu cũng có người “thèm” và vặt hoa Nhật Tân như dân ta bẻ đào Phú Sỹ năm ngoái.

Còn tiếp tục những dự án biến đường phố làm trung tâm thương mại, chiếm đất công viên xây khách sạn dưới danh nghĩa “cam kết quốc tế”, xây sân chơi thành chợ, hay cuộc săn lùng những "tấc đất vàng" cuối cùng đang âm thầm tiến hành thì không còn chỗ nào cho vườn hoa, đường hoa hay hồ hoa. Tệ nạn đói “hoa” vẫn còn tồn tại.

Ai đã từng sang Seoul, Thượng Hải, hay Tokyo về mùa hoa anh đào nở thì sẽ không ra sân Quần Ngựa để thưởng ngoạn hoa và nắng. Dù hoa đẹp đến đâu nhưng không ở trong một ngữ cảnh với thiên nhiên giao hòa thì cũng chỉ như cành đào Sapa mang về căn hộ cao cấp Ciputra, để rồi hoa trở nên đơn độc và lãng xoẹt, như thiếu nữ xinh đẹp múa trước đám dân làng đang đói hoa mắt.

Ngày xưa “đói nghèo sinh nghịch tặc” dễ hiểu. Thời nay, nhiều kẻ giầu nhưng có quyền vẫn tiếp tục ăn cắp do tham nhũng vì “đói” luật pháp. Trộm cây, vặt hoa liên quan đến thứ đói khác, đó là “đói văn hóa”, một căn bệnh không kịp chữa trị, xã tắc sẽ lâm nguy. Tệ nạn này từ nhiều hệ lụy, do nền giáo dục trong gia đình, nhà trường, ngoài xã hội kể cả luật pháp không được thượng tôn. Tham nhũng tràn lan không bị trừng phạt nghiêm khắc cũng là nguyên nhân khác. Người ta ăn cắp nhiều thế thì mình bắt chước với bông hoa có làm sao.

Nhìn xa trông rộng để phát triển đất nước, dân sẽ không đói hoa, cảnh kín cổng cao tường và "chuồng cọp" cũng mất đi. Ngôi nhà rất đẹp nhưng lại rào như trại giam thì khó nuôi dưỡng những tâm hồn lớn bên trong. Cảnh sát nên đi tuần tra bảo vệ cho khu phố không cần khóa cửa khi đi vắng thay vì ngồi gốc cây để bắt kẻ vặt hoa. Hôm nào đó, ta có thể yên tâm để lại lời nhắn bạn như 40 năm trước “Chìa khóa để dưới thảm". Lời hát xưa "tình yêu hoa lúa rộn ràng" thuở nào có thể tìm lại được.

  • Hiệu Minh

Sunday 12 April 2009

Chỉ có một Lê Dung (for April 13, 2009)

Cái tên Lê Dung tôi nghe trên làn sóng Đài Tiếng nói Việt Nam rất nhiều từ lúc tôi còn nhỏ khi Đài phát các bài Mùa xuân trên TP HCM, Anh ở đầu sông tôi cuối sông, Chợ chờ em vẫn chờ ai … nhưng tuyệt nhiên tôi không thấy Lê Dung hát trên các sân khấu, trên truyền hình vào cái thời mà Thu Hiền, Thanh Hoa, Ái Vân ngự trị hầu hết các chương trình phát sóng ca nhạc. Thế nên vào khoảng năm 87, 88, 89 tôi cứ ngỡ Lê Dung là một nghệ sỹ của thế hệ trước đó và không còn hoạt động sân khấu nữa. Thế rồi vào đầu những năm 90 lần đầu tiên tôi nhìn thấy Lê Dung trên truyền hình Việt Nam, cũng là lúc nhà tôi bắt đầu có TV màu! Đó là chương trình ca nhạc trước thời khắc giao thừa. VTV phát 3 bài hát đại diện cho 3 miền: Hồng Nhung hát Nhớ Hà Nội của Hoàng Hiệp; Kim Phúc hát Một mùa xuân của Trần Hoàn và Lê Dung hát Mùa xuân trên Thành phố Hồ Chí Minh của Xuân Hồng. Cả ba bài đều lấy âm thanh của VOV và các ca sỹ chỉ quay ngoại cảnh rồi hát “đớp”. 3 bài hát quá tuyệt, tới mức cứ mỗi khi Tết về tôi lại nhớ lại chính 3 bài đó. Tôi cũng có ý định sẽ dựng lại 3 bài đó thành một clip rồi đưa lên Youtube!

Lần đó Lê Dung xuất hiện trên truyền hình với phong cách thật hiện đại: không phải với mái tóc một mất một còn như trong một khoảng thời gian sau này mà là một mái tóc ngắn hoàn toàn. Hình ảnh ấy thật sự rất sốc với phấn lớn người Việt Nam khi đó vì phải gần 10 năm sau người ta mới quen kiểu tóc ngắn như vậy với sự xuất hiện của Mỹ Linh. Tôi nói bạn đừng cười, tôi còn nhớ ông hàng xóm của tôi đã thốt lên “trông nó như … con bớp”. Không hiểu khi đó Lê Dung để tóc ngắn như vậy là do sự cố về sức khỏe hay do thời trang. Nếu là thời trang thì quả là cô ấy đã đi trước thời đại. Khổ, đi trước thời đại là như thế đấy.

Tuy vậy, tôi vẫn có ấn tượng rất tốt đẹp về hình ảnh Lê Dung trong lần xuất hiện lần đầu đó. Trong những lần tiếp theo, tiết mục của Lê Dung luôn là tâm điểm theo dõi của tôi. Có lẽ tới giờ tôi vẫn có thể nhớ đầy đủ các tiết mục của Lê Dung trên truyền hình. Đó là hình ảnh Lê Dung đội tóc giả hát Em ơi Hà Nội phố (vì lúc đó tóc ngắn chưa dài) trong tà áo dài trắng cách tân không được đẹp lắm. Nhưng Lê Dung đã thật đẹp với mái tóc dài hơn, hơi một mất một còn với chiếc áo dài xẫm màu trong một chương trình giới thiệu các tác phẩm của Phạm Tuyên mà trong đó Lê Dung hát Lời ru của đêm. Lê Dung vừa hoạt bát, vừa tươi tắn khi xuất hiện cùng Tường Vy, Tuyết Mai, Đàm Liên là những người cùng được phong NSND nhân dân vào năm 1993. Lần đó Lê Dung hát cùng Tường Vy một bài hát của Nga mà trong đó khán giả rất ấn tượng về một Lê Dung đang rất sung mãn còn Tường Vy thì rõ ràng đă ỏ bên kia đỉnh dốc. Rồi Lê Dung trở thành ca sỹ chủ lực trong các đêm nhạc của Phú Quang, Dương Thụ được VTV phát sóng. Tôi thích nghe Lê Dung hát Lang thang và Nỗi nhớ của Phú Quang, Họa mi hót trong mưa của Dương Thụ cùng với piano. Cách xử lý đầy chất phóng tác vì được hát cùng piano chứ không phải hát cùng dàn nhạc nhẹ như trong Album sau này. Tôi được biết Phú Quang vẫn giữ hết các tư liệu này.

Lê Dung ít hát trong các chương trình ca nhạc dựng hình trong trường quay của VTV như Thu Hiền hay Thanh Hoa. Nhưng có một lần Lê Dung ngồi hát Khúc mùa thu của Phú Quang- Hồng Thanh Quang trong trường quay của VTV một tiết mục đã chinh phục rất nhiều khán thính giả, trong đó có tôi. Trong các năm sau đó Lê Dung thực sự trở về với đời sống ca nhạc trong nước với sự xuất hiện liên tục trong các chương trình lớn, điều này thì bạn và tất cả khán giả truyền hình Việt Nam đều quá rõ. Nhưng tôi còn nhớ có lần thời sự còn trích đoạn Lê Dung phát biểu với tư cách là thành viên của hội nhạc sỹ hay sân khấu Việt Nam, trong đó Lê Dung đứng trên bục của Nhà hát lớn và phát biểu rất mạnh mẽ về “sự xâm lăng của các loài cỏ dại vào nền âm nhạc thời mở cửa của Việt Nam”. Hình như trong Đại hội đó của hội nhạc sỹ Lê Dung lại không được bầu vào ban chấp hành… Lần cuối cùng tôi nhìn thấy Lê Dung trên truyền hình là một chương trình Lá thư âm nhạc hay Điểm hẹn âm nhạc truyền hình trực tiếp từ HCMC mà trong đó Lê Dung hát hai bài là Nụ cười sơn cước và Bóng cây K’nia. Có lẽ đây chính là chương trình mà bạn đã nói tới, chương trình truyền hình trực tiếp cuối cùng có sự xuất hiện của Lê Dung, trong đó Lê Dung hát quả là có phô và hơi yếu, mờ.

Tôi cũng có may mắn được xem Lê Dung hát trực tiếp một số lần. Lần đầu tiên là năm 1995 trong kỷ niệm 50 năm ngoại giao Việt Nam với sự có mặt của tất cả các lãnh đạo Đảng và Nhà nước đương thời. Lê Dung hôm đó hát Người Hà Nội và Đêm đông. Sau đó một năm tôi được xem Lê Dung hát lần thứ 2 trong một chương trình nhạc cổ điển đặc sắc, đó là chiêu đãi văn nghệ dành cho đoàn ngoại giao tại Nhà hát lớn. Chương trình không quá 45 phút và chỉ có Đăng Dương và Lê Dung hát. Đăng Dương hát Tình ca và một trích đoạn opera rất hay, nhất là Tình ca với ngón đàn điêu luyện của Hàn Ngọc Thoa. Tuy nhiên Lê Dung đã thực sự khiến cả khán phòng ấn tượng khi cô ấy xuất hiện trong bộ đầm màu đen, tóc dài vắt sang một bên. Ngay sau khi cúi chào khán giả, cử chỉ đầu tiên của Lê Dung là nhấc cái chân mic bỏ sang một bên và bắt đầu hát không mic. Lê Dung hát Bài ca hy vọng, Sông Lô và sau đó là trích đoạn Pace pace. Thật không thể có phần trình diễn nào hoàn hảo và sang trọng hơn thế. Phải qua những lần như thế tôi mới thấy hết được đẳng cấp của Lê Dung.

Tôi không có may mắn được tiếp xúc với Lê Dung lúc còn sinh thời cô ấy. Nói chính xác là có một số dịp bị bỏ lỡ. Lê Dung có quan hệ khá mật thiết với nhiều đồng nghiệp của tôi. Một lần Lê Dung và Phú Quang đến trực tiếp cơ quan tôi để giao lưu với các anh chị trong cơ quan. Không hiểu lần đó tôi bận gì mà không có mặt. Nghe kể lại hôm đó Lê Dung hát nhạc Phú Quang và Phú Quang chỉ đệm bằng ghi-ta, rất lạ, tôi chưa bao giờ được nghe như thế. Đồng nghiệp của tôi cũng kể, có một lần, khi hát tại sứ quán Việt Nam tại Singapore trong chiêu đãi quốc khánh, giữa vài trăm khách mời, Lê Dung còn thẳng thắn nhắc nhở khán giả là hãy trật tự nếu muốn nghe hát! Lê Dung cũng đi cùng các sư phụ của tôi trong đó có Mme Tôn Nữ Thị Ninh, Mme Nguyễn Thị Hồi (cựu đại sứ VN tại Canada) sang Bắc Kinh dự Hội nghị thượng đỉnh về phụ nữ và mọi người càng trở nên những người bạn thân.

Trong mối quan hệ đó, vào năm 2000, khi bọn tôi đăng cai Hội nghị phụ nữa Quốc tế, trong danh sách đại biểu Việt Nam bọn tôi đã ghi tên Lê Dung. Tôi rất mong chờ sự kiện đó để có dịp gặp và trò chuyện cùng Lê Dung. Tuy nhiên, cơ hội đó đã không đến vì Nhạc viện đã làm thất lạc thư mời và Lê Dung sau đó cho biết là cô ấy cũng rất tiếc vì không được đến dự hội nghị. Cũng có lần khi đi học tôi đã nhìn thấy Lê Dung đi bộ ở gần khu tập thể Thành Công (chắc là đi chợ về, trông rất có vẻ thế). Khoảnh khắc mà tôi đứng gần Lê Dung nhất, thật buồn, lại là trước linh cữu của cô ấy. Vào đúng buổi đi làm đầu tiên sau Tết Nguyên Đán năm 2001, tôi và các đồng nghiệp đều bàng hoàng khi hay tin Lê Dung đã qua đời. Cả cơ quan đi viếng, nhìn Lê Dung nằm trong quan tài với nét mặt vẫn tươi tắn mà thật xót xa. Hôm đó Phú Quang cũng bay từ Sài Gòn ra, tóc bạc phơ và chú ấy nói bản thân đang chống chọi với ung thư! Trong đám tang của Lê Dung, người ta không mở nhạc hồn tử sỹ hay tiếng kèn bát âm, xuân nữ mà là tiếng hát Lê Dung trong bài Gửi người em gái: “Em tôi đi màu son trên đôi môi, khăn san bay lả lơi …”.

Tối hôm đó chương trình thời sự VTV cũng đưa về sự ra đi của Lê Dung. Ngay sau khi kết thúc thời sự là một chương trình ca nhạc tưởng nhớ NSND Lê Dung với các bài gắn liền với tên tuổi Lê Dung trên VTV1: Bài ca hy vọng, Người Hà Nội, Ave Maria, Mẹ yêu con… là các tác phẩm thuộc dòng nhạc chính thống và cổ điển. Trên VTV3, Kiều Chinh làm một chương trình đầy đủ hơn, gồm cả phỏng vấn các nhân chứng, giới thiệu cả bài hát thiếu nhi Em yêu đất mỏ quê em, các cuộc thi quốc tế của Lê Dung, bài ca hy vọng cũng như một số bài hát tiền chiến như Đêm đông (video của Truyền hình Cần Thơ mà trong đó Lê Dung có hát Ảo ảnh của Y Vân). Cùng thời gian đó, Mai Trung Kiên của VOV làm một chương trình tưởng nhớ Lê Dung rất xúc động trên VOV1, trong đó giới thiệu các bài: Bạch Long Vĩ đảo quê hương, Anh ở đầu sông em cuối sông, Gửi anh đi đầu quân, Ngày mùa, Ba Vì năm xưa, Từ trên đỉnh núi, Tiếng đàn bầu, Mẹ yêu con và Đêm đông (bản thu thanh tại VOV ngay sau khi Lê Dung từ Pháp về nước). Thời gian đó tôi có gửi thư yêu cầu cho cả VOV1 của Ánh Quyên và VOV3 của Trang Công Tiến và yêu cầu được nghe hai bài Mùa xuân trên TPHCM và Chợ chờ em vẫn chờ ai. Ánh Quyên đã đáp ứng yêu cầu của tôi bằng cách cho phát Chợ chờ em vẫn chờ ai. Trang Công Tiến thì lại cho phát… Họa mi hót trong mưa. Tôi biết là Mùa xuân trên TPHCM do Lê Dung hát đang bị thất lạc và họ chỉ có thể phát bản của Tam ca Áo trắng hoặc Ngọc Lan.

Sau ngày Lê Dung qua đời, tôi rất chú ý theo dõi các chương trình ca nhạc trên VTV để hy vọng được xem lại những hình ảnh của Lê Dung. Quả thật đã có tới 3 chương trình giới thiệu những bài hát đi cùng năm tháng mà ca sỹ minh họa là Lê Dung: Người là niềm tin tất thắng- Lê Dung hát với phong cách opera đặc trưng, quay ngoại cảnh ngay phía sau Lăng Bác Hồ; Hồ Chí Minh đẹp nhất tên Người; và Người lá đò trên sông Pô Kô. Mặc dù VTV là nơi lưu trữ tư liệu hình ảnh tệ nhất trên thế giới nhưng hy vọng những video clips đó tương đối gần đây nên vẫn còn giữ lại được.

Tôi kể lể về những diễn biến ở trên quả là rất lan man và có lẽ những câu chuyện trên chẳng có ý nghĩa gì với nhiều người. Nhưng với tôi, sự ra đi của Lê Dung lại chính là sự kiện tác động rất lớn tới đam mê nhạc VOV của tôi. Kể từ sau sự kiện ấy, tôi tìm mọi cách để tập hợp lại các bài hát của Lê Dung. Tôi đã liên hệ được với Trang Công Tiến, Xuân Thọ, Xuân Kỳ của VOV và Kiều Chinh, Phương Liên của VTV. Đó cũng là sự khởi đầu cho việc tích lũy kho nhạc VOV của riêng tôi, một quá trình kéo dài tới nay cũng ngót 10 năm J Trong suốt một thời gian sau đó, dù đi đâu, làm gì thì trong ba lô của tôi cũng có chiếc Sony Walkman (hồi đó đâu đã có ipod) và mấy cuộn cassettes tiếng hát Lê Dung. Tôi đi Sài Gòn cũng mang theo, đi nước ngoài cũng mang theo. Tôi nghe và “bắt” những người thân và bạn bè của mình cùng nghe, cũng giống hệt như khi tôi nghe Khánh Ly- Trịnh Công Sơn, rồi Tiến Thành nữa. Cho đến vài tháng sau đó, đúng lúc tôi đang ở Sài Gòn, đang trọ ở đúng phố Phạm Ngọc Thạch, đang nghe nhạc ở Tiếng Tơ đồng vào tối 1/4 và được Quang Minh và Hồng Ngọc báo tin Trịnh Công Sơn vừa qua đời thì những người bạn và đồng nghiệp của tôi đã “tổng kết” rằng: mày cứ hâm mộ ai là người đó… đoản thọ!!! OMG, thiện tai!!!

***

Tôi không biết Lê Dung tu nghiệp ở Tchaikovski chính xác ở giai đoạn nào và cô ấy ở Pháp thời gian cụ thể nào. Tuy nhiên căn cứ vào tư liệu âm thbạn của tôi thì tôi thấy Lê Dung thu thanh khá liên tục từ năm 1974-75 (Tiếng đàn bầu, Xa khơi, Bạch Long Vĩ đảo quê hương … ) cho đến 1985-86 (Trở lại Cao Bằng) mặc dù có hai tư liệu sớm hơn, một là bài hát thiếu nhi Em yêu đất mỏ quê em từ năm 1964 (sang tác của Nguyễn Đức Huyên, hát cùng một thiếu nhi khác tên là Bích Ngọc, Lê Dung được biết với cái tên Kim Dung) và bài Nhanh tay lên chị em ơi mà Lê Dung hát cùng tốp nữ Văn công Tả ngạn từ năm 1971. Trong tư liệu của tôi không hề có bài hát nào được Lê Dung thu âm trong các năm 87, 88, 89 trong khi đây là thời kỳ nở rộ của Ái Vân, Thanh Hoa, Thu Hiền. Đến năm 90 mới bắt đầu tiếp tục có tư liệu của Lê Dung với Mẹ yêu con (1990), Lời ru của đêm của Phạm Tuyên, Đêm hương hồi của Vũ Hùng và Aria Sức mạnh số phận (la forja del destino) trong opera Pace pace được thu năm 1991. Năm 1992 thì Đài VOV và đài Hà Nội giới thiệu nhiều lần chùm ca khúc Việt Nam được Lê Dung hát kiểu semi-classic với Đêm đông (mà bạn đã đề cập), Em ơi Hà Nội phố, Tuyết rơi, Mặt trời bé thơ, O sole mio, Chiếc lá cuối cùng. VTV cũng dựng hình từ các băng âm thanh này, Lê Dung khi đó tóc chưa dài nên phải đội tóc giả. Sang năm 1993 thì Lê Dung được phong nghệ sỹ nhân dân và cho ra đời Album Họa mi hót trong mưa…

Như vậy thời gian 87,88,89 có thể là lúc Lê Dung không ở Việt Nam và nếu so sánh giọng hát Lê Dung ở thời điểm trước và sau khoảng thời gian thì thấy có sự khác biệt rất rõ về cách xử lý bài hát. Chủ yếu sự khác biệt được thể hiện ở chỗ Lê Dung lúc trước hát rất chỉn chu, mô phạm và lúc sau thì vô cùng tự tin, cách tự tin của một người đã làm chủ được toàn bộ nhưng gì thuộc về kỹ thuật thanh nhạc, một người đã nắm hết được phần hồn của bài hát và cũng là một người đang ở đỉnh cao của phong độ, của sự màu mỡ trong giọng hát và cả của sức khỏe nữa. Nhưng cái làm nên cái chất của Lê Dung, cái mà ta phân biệt Lê Dung với các giọng nữ khác thì dường như bất biến: giọng Lê Dung luôn trong vắt, tròn căng, đầy đặn, mượt mà, nghe không bao giờ chói tai. Để thấy rõ hơn cái này thì tôi đành phải so sánh. Chẳng hạn như ta không thể nói giọng Thu Hiền là trong vắt, không thể nói giọng Thúy Lan hay Kim Phúc hay thậm chí là Ái Vân, Thanh Hoa là căng tròn, là đầy đặn vì giọng của họ thực ra rất mảnh. Lê Dung có khẩu hình nhìn rất sang trọng, nhất là khi khép làn môi lại vừa như để mỉm cười trong lúc hát vừa để cho làn hơi được đẩy lên cao trong lúc ngân, và có thể là để lấy hơi qua mũi một cách khéo léo nữa.

Giọng hát của một ca sỹ trước hết và bắt buộc phải do thiên phú rồi sau đó mới tính chuyện được hoàn thiện nhờ học hành, rèn luyện chuyên nghiệp, và rồi lại phải được “Tổ đãi” nữa thì mới mong sống lâu với nghề. Lê Anh Dũng cũng đồng ý với tôi như thế với đại ý là “không có bột thì khó mà gột nên hồ”. Ở Lê Dung mấy yếu tố đó được thể hiện rõ ràng nhất. Nghe Lê Dung hát Em yêu đất mỏ quê em từ năm 1964 khi mới hơn 10 tuổi dù ta không thấy được rằng đó là một thần đồng nhưng cũng thừa sức để thấy được một tiềm năng rất mạnh. Lê Dung ngay từ khi xuất hiện trên sân khấu chuyên nghiệp của Đoàn Văn công Tả ngạn ắt hẳn đã bộc lộ tiềm năng của một soprano thứ thiệt của Việt Nam khi cô ấy lĩnh xướng trong Nhanh chân lên chị em ơi hay Hát mừng Việt Lào chiến thắng (đều trong năm 1971). Và từ 1974 Lê Dung bắt đầu có được chỗ đứng khá đĩnh đạc trên sóng Đài Tiếng nói Việt Nam giữa thời kỳ đỉnh cao của nền ca khúc Việt Nam với cả một rừng các cây đa, cây đề thuộc thế hệ đó như Bích Liên, Thanh Huyền, Vũ Dậu và biết bao nhiêu tên tuổi nữa. Cho đến nay, những bài hát Lê Dung hát từ thời kỳ đó như Xa khơi, Tiếng đàn bầu, Biết ơn chị Võ Thị Sáu, Bạch Long Vĩ đảo quê hương, Đất mỏ anh hùng … vẫn thường xuyên được phát sóng và được nhiều người yêu thích.

Tuy nhiên, đúng như bạn và nhiều người nhận xét, giọng Lê Dung thời kỳ này có một nhược điểm rất rõ, đó là rung giọng. Khoảng cách vibrato quá ngắn và liên tục khiến có lúc ta tưởng Lê Dung hát chưa được bình tĩnh, hơi chưa đủ căng nên tiếng hát thành ra run rẩy. Nhược điểm này kéo dài trong suốt các năm 74,75,76 mà ta thấy trong các ca khúc thu thanh vừa kể trên. Nhạc sỹ Phú Quang trong đêm nhạc Con đường âm nhạc số đầu tiên của VTV3 khi tưởng nhớ Lê Dung cũng nói về nhược điểm này trong giọng hát thời kỳ đó của Lê Dung. Đại ý Phú Quang kể rằng ông đã có lần rất nghiêm khắc phê bình Lê Dung vì cái “tội” rung giọng “như dê kêu” khi ông tập cho Lê Dung bài Anh ở đầu sông em cuối sông cùng Dàn nhạc Mùa thu vào năm 1978 tới mức Lê Dung bưng mặt khóc và chạy ra khỏi phòng thu.

Sự rèn luyện nghiêm khắc đó quả là đã phát huy hiệu quả khi mà ta nghe Lê Dung trong các tư liệu thu thanh từ thời kỳ đó trở đi không còn nhược điểm này nữa. Từ Anh ở đầu sông em cuối sông cho đến Tình em biển cả mà Lê Dung thu trong năm 1978 người ta thấy có sự chuyển rất rõ rệt. Cho đến các năm 79, 80, 81 giọng hát Lê Dung đã thực sự bước vào thời kỳ đỉnh cao với sự hoàn thiện về kỹ thuật, của sự màu mỡ trong chất giọng, của sự chín muồi trong xúc cảm. Đã đành nhạc cảm của Lê Dung luôn luôn thường trực như một hằng số trong các ca khúc cô hát thời kỳ này, nhưng đồng thời những người làm nghề và khó tính cũng không thể nào tìm ra được những nhược điểm trong kỹ thuật và cách xử lý bài của Lê Dung khi cô hát Suối Lê Nin, Viếng Lăng Bác, Chào tôi cô gái Lam Hồng, Cảm xúc tháng Mười, Vui mùa chiến thắng, Tiếng hát trên đường quê hương hay các bài dân ca như Đò đưa, Chung lập chiến công (thu âm năm 1979).

Giọng hát hoàn hảo, nhạc cảm đặc biệt, sự nhập cuộc và làm chủ tác phẩm đến nhuần nhuyễn của Lê Dung trong thời kỳ này đã làm sản sinh ra những tác phẩm lưu danh giọng hát của cô cho mãi về sau, đó chính là Mùa xuân trên thành phố Hồ Chí Minh (Xuân Hồng), Ba Vì năm xưa (Huy Du), Củ Chi yêu thương (Trương Quang Lục), Hát từ xóm biển Cà Mau (Văn Chung), Vầng trăng sáng (Thái Cơ), Vaxilo... Ta cũng cảm nhận rõ nhất sự hội tụ của tất cả các ưu điểm của Lê Dung khi cô hát Cô gái vót chông của Hoàng Hiệp (năm 1983) với khả năng hát giọng cao mà rất dày, đầy và rõ tiếng, cũng như cách hát nảy âm staccato giả tiếng chim rừng ở đoạn interlude. Nhạc cảm mà Lê Dung thể hiện trong Trở lại Cao Bằng của Tân Huyền, (1985) chính là thứ vốn liếng của cảm xúc mà nhiều năm sau này ta gặp lại trong Lời ru của đêm của Phạm Tuyên (1990), hay Đêm hương hồi của Vũ Hùng (1991), thậm chí trong Chiều phủ Tây Hồ hay Khúc mùa thu của Phú Quang.

Các cụ nói “yêu nhau củ ấu cũng tròn”. Tôi vẫn tin tôi có lý trí chứ không để tình cảm làm mình mất khách quan. Không hiểu tôi hiểu bình luận của bạn về giọng hát Lê Dung với dòng nhạc tiền chiến có chính xác hay không. Tuy nhiên, nếu bạn cho rằng Lê Dung không hợp hay không thành công trong dòng nhạc tiền chiến thì tôi nhất định phản đối. Rõ ràng Lê Dung luôn đứng đầu bảng trong mảng opera ở Việt Nam vì ở giọng hát của cô vừa có sự hoàn thiện về kỹ thuật vừa có sự dồi dào của cảm xúc. Cứ nghe Lê Dung hát Pace pace của nước ngoài hay aria Cô Sao của Việt Nam hay phong cách opera trong Bài ca hy vọng, Người Hà Nội, Đường chúng ta đi, Trường ca Sông Lô, Du kích sông Thao thì sẽ thấy điều đó.

Nhưng tôi vẫn phải khẳng định rằng Lê Dung là một ca sỹ hiếm hoi của Việt Nam thành công với nhiều thể loại ca khúc. Cô có khả năng chuyển giọng để nó rất phù hợp với các thể loại ca khúc khác nhau, loại nào ra loại ấy chứ không lẫn lộn như như nhiều nghệ sỹ khác. Opera hay nhạc đỏ thì chúng ta nói rồi. Lê Dung hát dân ca vô cùng hay với Đò đưa, chung lập chiến công như tôi đã kể hay âm hưởng dân ca trong Chợ chờ em vẫn chờ ai của Huy Du. Trong nhạc nhẹ thì ai có thể hát các ca khúc của Phú Quang, Dương Thụ như Chiều phủ Tây Hồ, Khúc mùa thu, Ngày mai, Nỗi nhớ, Họa mi hót trong mưa hay được như Lê Dung.

Với nhạc tiền chiến và nhạc Trịnh, nhạc miền Nam thì quả là tôi cũng không đánh giá cao Album Họa mi hót trong mưa nhưng chủ yếu do chất lượng phòng thu không được tốt. Còn bộ CD Những tình khúc bất tử mà Lê Dung làm ở Pháp và Thụy Sỹ với những Đêm đông, Buồn tàn thu, hay CD Tiếng thời gian, CD Màu nắng có bao giờ phai đâu với nhạc Đoàn Chuẩn, CD Tình nghệ sỹ … theo tôi là những sản phẩm hoàn hảo cả về nghệ thuật và thị trường. Tôi cũng có một băng cassette Lê Dung thu khi cô ở Pháp gồm các bài Quê hương, Mưa rơi (Trần Hoàn), một số bài của Ngô Thụy Miên, Đỗ Dũng do một người bạn tặng. Cũng từ các CD trên thị trường mà tôi tìm thấy bài Biển hát chiều nay, một bài theo tôi phải tới bản thu của Lê Dung thì Hồng Đăng mới thực sự tìm được chủ nhân cho bài hát của ông. Và chắc chắn nhiều nhạc sỹ cũng tìm thấy tri âm tri kỷ cho các tác phẩm của họ từ giọng hát Lê Dung. Nhiều nghệ sỹ thanh nhạc lừng danh của Việt Nam cũng thần tượng giọng hát Lê Dung. Nghệ sỹ Nhân dân Thanh Huyền nói trên một tờ báo rằng trong các giọng hát của thế hệ sau bà thì Lê Dung là người mà bà khâm phục nhất. Nữ danh ca Khánh Ly cũng coi giọng hát Lê Dung là một trong những giọng hát đẹp nhất của Việt Nam. Chỉ có một Lê Dung.

Wednesday 8 April 2009

Cố đấm liệu có ăn xôi? (April 09, 2009)

Cuộc chơi tốn kém của Vịnh Hạ Long
16:56' 08/04/2009 (GMT+7)

img- Chúng ta sẽ được gì nếu Vịnh Hạ Long được bầu chọn là một trong bảy kỳ quan thiên nhiên thế giới khi bản thân nó đã hai lần được UNESCO công nhận là di sản thế giới mà cuộc đua hiện tại lại quá tốn kém và không biết sẽ đi đến đâu?

>> Ai đảm bảo Vịnh Hạ Long không bị loại lần nữa?
>> Gỡ rối cho Vịnh Hạ Long bằng cách nào?

Nhân việc Đại sứ quán Hàn Quốc vừa khai trương gian quảng bá Vịnh Hạ Long lần thứ hai tại khách sạn Daewoo Hà Nội dưới sự chủ trì của Bộ VH-TT-DL, VietNamNet đã phỏng vấn ông Trần Chiến Thắng, Thứ trưởng Bộ VH-TT-DL kiêm Tổng cục trưởng Tổng cục Du lịch quanh diễn biến mới của cuộc vận động bầu chọn này.

Rất nhiều doanh nghiệp đã bỏ không ít tiền để tài trợ cho cuộc vận động Vịnh Hạ Long trở thành kỳ quan thiên nhiên thế giới mới của new7wonders như: Tập đoàn điện lực VN, Tập đoàn dầu khí VN, Tổng công ty hàng không quốc gia VN, tập đoàn Kumho Asiana của Hàn Quốc.... Ngoài chi phí trang bị máy tính nối mạng ở các điểm bình chọn, các đơn vị đứng ra vận động bầu chọn cho Vịnh Hạ Long phải chi một số tiền không nhỏ cho việc quảng bá sự kiện. Sau sự kiện Vịnh Hạ Long bị loại khỏi cuộc bầu chọn danh sách bầu chọn các kỳ quan thiên nhiên của thế giới ngày 14/4/2008, new7wonders đã ra quy định rằng các đơn vị muốn quảng bá bầu chọn cho vịnh Hạ Long phải trả chi phí từ 2.500-5.000 USD/tháng cho tổ chức trên. Theo thống kê của Alexa, địa chỉ uy tín chuyên xếp hạng các website trên thế giới thì new7wonders hiện tại đứng thứ 15.703 (tính đến 15h30 ngày 8/4) và chỉ xếp thứ 7.407 về lượng truy cập trong số các trang web tại Việt Nam.

- Nhiều ý kiến cho rằng cuộc vận động bầu chọn cho Vịnh Hạ Long trở thành di sản thiên nhiên của thế giới quá tốn kém mà không biết Vịnh Hạ Long có lọt được vào top 21 kỳ quan được đề cử và sẽ công bố vào ngày 1/7 sắp tới không. Ông nghĩ gì về nhận xét này?

- Tôi cũng chưa biết là nó tốn kém đến mức nào nhưng việc mỗi người bỏ ra một phần thời gian rất nhỏ của mình để ngồi trước máy tính bầu chọn cho Vịnh Hạ Long thì không có gì tốn kém. Có một số người nói việc bầu chọn cho Vịnh Hạ Long tốn kém nhưng tôi không biết so với cái gì để nói là tốn kém. Việc tôn vinh một di sản của Việt Nam đối với thế giới thì có lẽ bao nhiêu cũng không đủ.

- Nhưng trên thực tế Vịnh Hạ Long đã được UNESCO công nhận là di sản thế giới tới hai lần. Lần này chúng ta đang vận động cũng cho địa danh ấy danh hiệu di sản thiên nhiên thế giới, nhưng do một tổ chức tư nhân đứng ra bầu chọn. Đây được cho là một việc làm không cần thiết, nhận xét đó theo ông có xác đáng?

- Tôi thấy lớp trẻ rất quan tâm đến kỷ lục Guinness do một ông chủ quán bia lập ra. Tôi không biết có nên so sánh việc new7wonders bầu chọn các kỳ quan thiên nhiên của thế giới với Guinness hay không, nhưng ít nhất có một người đứng ra khởi xướng và quảng bá cho địa danh của chúng ta, tôi nghĩ chúng ta không nên từ chối.

img
Ông Trần Chiến Thắng (giữa). Ảnh: Hạnh Phương
- Có thể ví việc Vịnh Hạ Long 2 lần được UNESCO công nhận là di sản thế giới như một cô gái đẹp đã đi thi và đã có danh ở tầm thế giới, giờ đây lại cố gắng đoạt danh hiệu trong một cuộc thi nhỏ, có thể ví như một cuộc thi "làng". Vậy có nên không?

- Mỗi cuộc chơi có một bản sắc riêng, cách thức riêng, cách tiếp cận riêng nên tôi không nghĩ cái này có thể so với cái khác. Cơ quan văn hoá khoa học đánh giá bằng những giá trị khoa học còn đây người ta chỉ chọn tính hấp dẫn. Anh có thể học rất giỏi nhưng không hấp dẫn. Anh có thể là tiến sĩ, giáo sư nhưng lại không đẹp trai. Anh có thể được chọn ở qui mô quốc gia nhưng ở làng có thể có người đẹp hơn mà họ không đi thi.

Cho nên, mỗi một cuộc chơi có một cách tiếp cận riêng. Và nếu nó mang lại lợi ích cho chúng ta ở tầm cỡ quốc gia là quảng bá hình ảnh cho đất nước mà chỉ có mỗi một việc ngồi vào máy tính là đã góp một hành động, một tiếng nói nhỏ tôn vinh cho địa danh của đất nước, thì nên làm.
img
Vị trí hiện tại của Vịnh Hạ Long (tính đến trưa ngày 8/4) trong top 77 địa danh được liệt kê trên trang new7wonders là 3.
- Ông có số liệu cụ thể nào về ảnh hưởng của cuộc vận động bầu chọn Vịnh Hạ Long mà chúng ta làm trong suốt thời gian dài vừa qua tới lượng khách du lịch đến với địa danh này?

- Tất cả số phiếu bầu chọn cho Vịnh Hạ Long không bao giờ được công bố và tỉnh Quảng Ninh đã thông báo chính thức rằng, kể từ khi có cuộc bầu chọn này khách quốc tế đến Vịnh Hạ Long rất đông và tăng đột biến. Số liệu cụ thể thì tôi chưa có, nhưng lượng khách tăng ít nhất 30%.

Ông có tin Vịnh Hạ Long sẽ lọt vào top 21 kỳ quan thiên nhiên có trong shortlist sẽ công bố ngày 1/7 tới trước khi chọn ra 7 cái tên cuối cùng?

- Tôi tin nếu tất cả chúng ta cùng bỏ phiếu. Bất cứ quốc gia nào cũng cố gắng vận động bầu chọn cho chính mình, tất nhiên!

  • Bích Hạnh (thực hiện)

Thursday 2 April 2009

Trịnh Công Sơn và Chính trị (April 03, 2009)

Video minh họa : Cuối cùng cho một tình yêu. Nhạc của Trịnh Công Sơn, Thơ của Trịnh Cung, Khánh Ly hát trong Asia Video số 10 « Thơ & Nhạc »

Bài viết gây chấn động của Họa sỹ Trịnh Cung về Nhạc sỹ tài hoa Trịnh Công Sơn đăng trên Tạp chí Da Vàng ngày 29/3.2009 :

Đã 8 năm kể từ ngày mất của Trịnh Công Sơn, 01-4-2001. Đã có rất nhiều bài và sách viết về người nhạc sĩ tài hoa xuất chúng này. Tất cả đều chỉ nói về 2 mặt: tình yêu (con người, quê hương) và nghệ thuật ngôn từ trong ca khúc Trịnh Công Sơn, tuyệt nhiên không thấy ai đề cập đến vấn đề Trịnh Công Sơn có hay không tham vọng chính trị. Phải chăng như Hoàng Tá Thích, ông em rể của người nhạc sĩ “phản chiến” huyền thoại này đã minh định trong bài tựa cuốn sách Như Những Dòng Sông của mình nói về âm nhạc và tình người của ông anh rể Trịnh Công Sơn, do nhà Xuất Bản Văn Nghệ và Công Ty Văn Hoá Phương Nam ấn hành năm 2007: “…Anh không bao giờ đề cập đến chính trị, đơn giản vì anh không quan tâm đến chính trị”? Hay như nhận định của một người bạn không chỉ rất thân mà còn là một “đồng chí” (trong ý nghĩa cùng một tâm thức về chiến tranh VN) của Trịnh Công Sơn, hoạ sĩ Bửu Chỉ (đã mất) đã viết: “Trong dòng nhạc phản chiến của mình, TCS đã chẳng có một toan tính chính trị nào cả” (Trích bài viết: “Về Trịnh Công Sơn và Những Ca Khúc Phản Chiến Của Anh”, in trong Trịnh Công Sơn, Cuộc Đời, Âm Nhạc, Thơ, Hội Hoạ & Suy Tưởng do Nhà Xuất Bản Văn Hoá Sài Gòn ấn hành năm 2005)?

Sự thực có đúng như câu khẳng định chắc nịch ở trên của ông Hoàng Tá Thích và hoạ sĩ quá cố Bửu Chỉ? Chắc chắn là sai 100% rồi nếu như Trịnh Công Sơn không là tác giả của 3 tập nhạc phản chiến (Ca Khúc Da Vàng, Kinh Việt Nam và Ta Phải Thấy Mặt Trời), và cũng chưa từng tham gia vào Phong trào Đấu tranh Đô thị của Thanh niên Sinh viên Học sinh để chống Mỹ và chính quyền Sài Gòn mà chính cuốn sách của Hoàng Tá Thích và bài viết của Bửu Chỉ vừa nhắc đến ở trên đã có nhiều tiết lộ. Mặt khác, trong bài viết “Có Nghe Ra Điều Gì” Trịnh Công Sơn gửi cho bác sĩ Thân Trọng Minh tức nhà văn Lữ Kiều năm 1973 có đoạn như sau: “…Chưa bao giờ tôi có ý nghĩ tự đề nghị với mình một trách nhiệm quá lớn, nhưng khi đã lỡ nhận chịu những cảm tình nồng hậu từ đám đông, thì những tình cảm kia phải được đền bồi…”. Và trong thư TCS gửi cho Ngô Kha - người bạn cùng chí hướng chính trị và cũng là người em rể, đồng thời là lãnh tụ của Chiến đoàn Nguyễn Đại Thức này đã bị Công An Huế bắt (1972-1974) - chúng ta sẽ dễ nhận ra ý thức làm chính trị chống chế độ Sài Gòn của Trịnh Công Sơn. Nhất là trong đoạn Lê Khắc Cầm nói về mối quan hệ giữa TCS và tổ chức cơ sở thành uỷ Huế do Lê Khắc Cầm bí mật phụ trách trước 1975 như thế nào, thì không thể nói là TCS không có toan tính chính trị như nhận định của hoạ sĩ Bửu Chỉ (Xin xem thêm Thư TCS gửi Ngô Kha và đoạn trao đổi về lá thư này giữa Nguyễn Đắc Xuân và Lê Khắc Cầm trong phần tư liệu đính kèm bài).

Trước khi nêu thêm những dẫn cứ quan trọng hơn để chúng ta có cái nhìn rõ hơn về thái độ chính trị của TCS thời chiến tranh VN, và cũng nhằm cung cấp thêm tư liệu để làm rõ các mối quan hệ có tính dính líu vào hoạt động chính trị phản chiến thân Cộng của TCS, tác giả xin kể một kỷ niệm với Ngô Kha và vì sao Ngô Kha lấy tên cho lực lượng đấu tranh của mình là Chiến đoàn Nguyễn Đại Thức.

Vào năm 1971, tôi có mời Ngô Kha tới dự bữa cơm đầy năm Vương Hương, con đầu lòng của tôi tại nhà ở Phú Nhuận. Sau tàn tiệc, tôi đưa Ngô Kha ra về. Chúng tôi đi bô từ ngã tư Phú Nhuận về hướng cầu Kiệu, khi gần đến chân cầu, Ngô Kha nói với tôi: “Cậu vào chiến khu với mình đi, có người dẫn đường đang chờ”. Tôi không ngờ lại bị Ngô Kha đưa vào thế kẹt. Lúc này, tôi đang là Trung Úy biệt phái dạy tại Trường Cao Đẳng Mỹ Thuật Huế, vừa bị Nha Mỹ Thuật Học Vụ trả về lại Bộ Quốc Phòng vì được Mỹ cấp học bổng tu nghiệp mỹ thuật tại Trung Tâm Đông và Tây, Hawaii, Hoa Kỳ (Sau 1975 tôi mới biết ông Nguyễn Văn Quyện, kiến trúc sư, Giám đốc Nha Mỹ Thuật Học Vụ, người ký quyết định không cho tôi đi Mỹ và trả tôi lại quân đội theo đề nghị của hoạ sĩ Vĩnh Phối - Hiệu trưởng Trường CĐMT Huế, cả 2 đều là Việt cộng nằm vùng), và Ngô Kha đang là em rể của Trịnh Công Sơn, cũng mang cấp bậc thiếu uý Quân lực VNCH có tư tưởng phản chiến, nhưng tôi không biết gì về hoạt động ly khai của anh cho tới lúc này. Thật bất ngờ và căng thẳng, làm sao tôi có thể đi về phía bên kia chiến tuyến? Tôi không hề tham gia vào phong trào phản chiến, tôi chơi với Trịnh Công Sơn, Ngô Kha, Hoàng Phủ Ngọc Tường, Đinh Cường khi họ chưa là người chống lại chế độ Việt Nam Công Hoà. Ngay cả tại “túp lều cỏ” Tuyệt Tình Cốc ở Huế, nơi mà nhà văn Thế Uyên trong một bài viết của anh có tên “Cuộc Hành Trình Làm Người Việt Nam Qua Trịnh Công Sơn” đã tự bạch anh từng đến dự những cuộc họp bàn về đấu tranh chính trị do nhóm Hoàng Phủ Ngọc Tường, Trần Quang Long, Nguyễn Đắc Xuân và Trịnh Công Sơn đứng ra tổ chức, tôi cũng chưa bao giờ đặt chân đến đó và thậm chí không hề biết có những việc như thế. Đơn giản vì tôi rời Huế vào sống ở Sài Gòn sau khi tốt nghiệp Mỹ thuật năm 1962, mối quan hệ giữa tôi và họ chỉ là một tình bạn văn nghệ thuần tuý. Để thối thác lời đề nghị ghê gớm này của Ngô Kha, tôi dừng lại trong bóng đêm bên này cầu Kiệu và nói với anh:”Ông thấy con mình vừa đầy năm, bà xã còn quá trẻ và yếu đuối, làm sao mình bỏ nhà đi vào căn cứ với bạn được. Hơn nữa mình không đồng ý cách giết người của họ ở Huế hôm Tết Mậu Thân… thôi chúc bạn lên đường may mắn!”. Thế nhưng, sự việc sau đó lại đưa Ngô Kha đến một hoàn cảnh khác. Anh không đi vào rừng mà về Huế rồi bị bắt và chịu một cái chết bi thảm.

Về Nguyễn Đại Thức là ai mà Ngô Kha dùng đặt tên cho lực lượng đấu tranh của mình?

Theo Nguyễn Đắc Xuân, Nguyễn Đại Thức nguyên là một hạ sĩ quan quân lực VNCH ly khai đã bắn hụt tướng Huỳnh Văn Cao khi ông dùng trực thăng kiểm soát tình hình Phật giáo xuống đường ở Đà Nẵng và Huế, và đã bị lính Mỹ bắn hạ. Hành động và cái chết của Nguyễn Đại Thức đã đưa Ngô Kha đến sự chọn lựa Nguyễn Đại Thức là tên và biểu tượng cho nhóm quân nhân ly khai đấu tranh chống Mỹ Nguỵ do anh tổ chức. Sau đây là đoạn viết của Hoàng Phủ Ngọc Tường trong Căn Nhà Của Những Gã LangThang: “…Theo tin tức quân báo của Kha nhận từ đoạn Đà Nẵng, thì lực lượng thuỷ quân lục chiến của Kỳ sẽ chĩa mũi nhọn vào những người của phong trào mà họ cho là nguy hiểm, ngay từ lúc họ đặt chân đến Huế để tránh hậu hoạ. Ngô Kha cùng đi với chiến đoàn ly khai của anh sẽ kéo dài cuộc cầm cự trên đèo Hải Vân, để tạo điều kiện cho tôi thoát…”. Đối với cá nhân tôi, nhờ tiết lộ kinh khủng này của Hoàng Phủ Ngọc Tường, những năm gần đây, tôi mới biết mình đã từng bị Ngô Kha dùng tình bạn để đưa vào cái gọi là Chiến đoàn ly khai Nguyễn Đại Thức mà không biết khi anh rủ tôi đi vào cứ như đã nói ở trên. May mà tôi đã từ chối.

Với bao nhiêu sự việc gắn kết với nhau, hoà quyện, ăn khớp, như thế mà chúng ta vẫn còn hoài nghi, vẫn biện bạch đây chỉ là một thứ tình cảm hồn nhiên hay hoa mỹ hơn, đấy là ý thức về thân phận dân tộc, tiếng nói đòi hoà bình đậm tính nhân bản cho quê hương của một người nghệ sĩ tài hoa như TCS, thì chi tiết sau đây đã được Nguyễn Đắc Xuân tiết lộ và đã xác nhận lại với tác giả bài viết này như sau: “Vào đêm ngày 29-5-1966, trên đường Trần Bình Trọng-Đà Lạt, Trần Trọng Thức (nhà báo), Nguyễn Ngọc Lan (linh mục, đã chết), Nguyễn Đắc Xuân và Trịnh Công Sơn đã cùng nhau bàn về một giải pháp chính trị cho trí thức yêu nước và người đưa ra sự chọn lựa rất quyết đoán và hợp ý với 3 bạn đồng hành với mình: “Không có con đường nào khác cho anh em mình ngoài Mặt trận Giải Phóng Miền Nam!”.

Vậy là đã quá rõ về khuynh hướng chính trị của Trịnh Công Sơn!

Từ Chính Trị Phong Trào đến Chính Trị Cầm Quyền?

Vỡ mộng chính trị cầm quyền

Những ngày trước 30-4-75, Sài Gòn rơi vào tình trạng hỗn loạn. Người thân cộng thì hí hửng, người quốc gia thì lo âu và tìm đường bỏ nước. Mọi thứ sinh hoạt đều tê liệt, tôi nằm trong số người chịu trận, bế tắc, no way out. Trong thời điểm tinh thần sa sút này, tôi thường ghé qua nhà TCS để tìm một thông tin tốt lành vì anh có nhiều mối quan hệ, nhưng cũng không được gì vì TCS từ chối ra đi và cho biết sắp nhận chức Quốc Vụ Khanh đặc trách văn hoá trong chính phủ Dương Văn Minh lên thay Thiệu-Kỳ, em trai TCS là đại uý Trịnh Quang Hà sẽ được giao làm Cảnh sát Trưởng quận 2 (nay là quận 1). Thế là xong, TCS sẽ tham gia chính quyền được chuyển từ tay Nguyễn Văn Thiệu để thương lượng hoà bình với quân GP đang bao vây Sài Gòn và doạ sẽ tắm máu Sài Gòn nếu VNCH không buông súng.

Thế nhưng, TCS và người em không có tên trong thành phần chính phủ Dương Văn Minh khi các hệ thống thông tin quốc gia công bố ngày 27-4-75 và cũng không có tên kiến trúc sư Nguyễn Hữu Đống trong vai đệ nhất Phó Thủ Tướng - người bạn chính trị không lộ diện của TCS từ trước sự kiện Tết Mậu Thân 1968, một cố vấn chính trị, một công trình sư cho sự nghiệp chính trị của TCS, đã vận động cho TCS vào chính phủ này như là đại diện của phe Phật giáo. Và với kết quả này, nhà hoạt đầu chính trị trẻ tuổi Nguyễn Hữu Đống đã phải rời khỏi nhà TCS ngay sau đó, sau khi đã ăn ở trong nhà TCS nhiều tháng trước như một người em rể.
Sau này, trong thời Lý Quí Chung còn sống, tôi có hỏi về sự việc này. Với tư cách là một Bộ trưởng Thông Tin và người rất thân cận với tướng Dương Văn Minh, Lý Quí Chung đã xác nhận: không hề có một đề cử nào cho TCS và Nguyễn Hữu Đống vào chính phủ Dương Văn Minh cả. TCS và gia đình đã bị Nguyễn Hữu Đống lừa rồi! Và từ đó TCS đã coi Nguyễn Hữu Đống là kẻ ghê tởm.

Một chút về Nguyễn Hữu Đống

Nguyễn Hữu Đống tốt nghiệp thủ khoa Trường Kiến Trúc Sài Gòn khoảng năm 1964 nhưng không hành nghề kiến trúc sư, bắt đầu chơi thân công khai với Trịnh Công Sơn vào khoảng 1970. Tôi không được biết gì nhiều về nhân vật này ngoài việc chứng kiến sự xuất hiện thường xuyên trong nhà TCS những tháng trước 4/1975 với tư cách em rể TCS, giữa lúc Sài Gòn liên tiếp nhận những thông tin về các tỉnh Tây Nguyên thất thủ, và cũng được biết từ TCS vào những ngày cuối của tháng 4/1975 là: chính quyền mới sẽ vẫn giữ nguyên chiếc ghế Đệ nhất Phó Thủ Tướng của chính phủ đầu hàng Dương Văn Minh (tức ghế của Nguyễn Hữu Đống). Sau đó, Nguyễn Hữu Đống đã vượt biên và định cư ở Pháp.

Thế nhưng, vào khoảng năm 1992, Nguyễn Hữu Đống về Sài Gòn và tìm thăm tôi. Tôi tiếp anh tại nhà và cùng ăn trưa. Thật ra, giữa tôi và Nguyễn Hữu Đống không đủ thân để anh tìm thăm, chẳng qua là chỗ để anh trút hết những gì TCS và gia đình không tiếp khi anh tìm đến thăm họ sau hằng chục năm ly gián từ ngày ấy. Trong những thổ lộ của Nguyễn Hữu Đống có 2 chi tiết đáng chú ý: Một là: Ý tưởng và mô hình kiến trúc Ngôi Đền Tình Yêu có hình quả trứng (lấy từ truyền thuyết Âu Cơ đẻ ra 100 trứng) để TCS chủ trì như một giáo đường là của Nguyễn Hữu Đống; Hai là: để Ngôi Đền Tình Yêu này mang đậm sắc thái TCS, Nguyễn Hữu Đống lập ý cho TCS viết Kinh Việt Nam. Dự án này tôi đã được TCS cho biết trước năm 1975 và sẽ xây dựng trên ngọn đồi của Bác sĩ Bùi Kiện Tín ở Thủ Đức, nằm đối diện với nghĩa trang quân đội Sài Gòn cũ. Xét về mặt tài năng kiến trúc và con người đầy tham vọng làm chính trị của Nguyễn Hữu Đống cũng như mối quan hệ mang tính chính trị giữa anh và TCS thì thông tin này đáng tin hơn là gần đây có nghe dư luận từ Phạm Văn Hạng là dự án này của Phạm Văn Hạng và TCS được ông Võ Văn Kiệt ủng hộ?

(Để biết thêm mối quan hệ chặt chẽ giữa TCS và Nguyễn Hữu Đống, xin độc giả đọc thêm đoạn trích dẫn trong phần ghi chú cuối bài viết này, câu Lê Khắc Cầm trả lời phỏng vấn Nguyễn Đắc Xuân về TCS).

Bài Học Lớn Cho Người Làm Chính Trị Tự Phát Trong Xã Hội CSVN

Những Gáo Nước Lạnh Ngày “anh em ta về”

Tuy nhiên, sau sự thất bại ấy, TCS lại đứng lên vui mừng vì Sài Gòn của anh trong ngày 30-4-75 đã xuất hiện: “Cờ bay trăm ngọn cờ bay” và“anh em ta về mừng như bão cát quay cuồng…”. Từ sự kiện tại Đà Lạt mà Nguyễn Đắc Xuân đã nhắc đến ở trên cho đến ngày 30-4-75 không có một chỉ dấu nào cho thấy có mối liên lạc về mặt tổ chức giữa Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam và Trịnh Công Sơn. Thậm chí khi anh được kiến trúc sư Nguyễn Hữu Thái đưa đến Đài Phát Thanh Sài Gòn để hát bài Nối Vòng Tay Lớn mừng chiến thắng lịch sử 30-4-75, TCS, tác giả của ca khúc có tính dự báo cho ngày huy hoàng này của quân Giải phóng và bi thảm cho phía VNCH, cũng bị Tôn Thất Lập, một nhạc sĩ chủ chốt trong phong trào Hát Cho Đồng Bào đã thoát ly đi theo MTGPMN, đuổi ra khỏi phòng thu: ”Mày có tư cách gì mà hát ở đây!”…

Bị bất ngờ với cú ra đòn khá tàn nhẫn này của người “anh em”, TCS thật sự choáng váng và sợ hãi, mọi niềm hân hoan trong anh về giấc mơ hoà bình cho đất nước của mình nay đã thành hiện thực bỗng chốc tan thành mây khói. Niềm vui tưng bừng reo ca “…Mặt đất bao la / anh em ta về / Gặp nhau mừng như bão cát quay cuồng trời rộng/ Bàn tay ta nắm nối tròn một vòng Việt Nam…” (Nối Vòng Tay Lớn) hôm ấy không thuộc về TCS, và thay vào đó là nỗi ám ảnh sắp bị thủ tiêu và phải làm thế nào chạy trốn khỏi “người anh em” càng sớm càng tốt.

Thật ra, tai nạn chính trị này đã có nguồn gốc từ quan điểm chính về tính hai mặt trong âm nhạc và con người TCS của Ban Văn Hoá Tư Tưởng-Trung Ương Cục Miền Nam do Ông Trần Bạch Đằng phụ trách. Chính nhạc sĩ Trần Long Ẩn đã kể lại rằng đã có một cuộc họp kiểm điểm TCS trong Cứ trước 1975 với thành phần tham dự gồm có hầu hết các văn nghệ sĩ thoát ly theo MTGPMN như: Tôn Thất Lập, Trần Long Ẩn,… dưới sự chủ trì của ông Trần Bạch Đằng.

Và Cuộc Chạy Trốn Khỏi Sài Gòn

Sự sợ hãi càng tăng cao khi TCS nhận được tin mình sẽ bị thanh toán. Chỉ vài ngày sau, TCS đã âm thầm cùng mẹ rời khỏi Sài Gòn bằng xe đò, trực chỉ ra Huế, nơi anh cũng đang có những ”người anh em” thân thiết cũ vừa chiến thắng trở về như Hoàng Phủ Ngọc Tường, Nguyễn Đắc Xuân, Thái Ngọc San,… hy vọng chắc được yên thân.

Trở lại sống trong căn hộ cũ 11 Nguyễn Trường Tộ - Huế, TCS quây quần với bạn bè cũ và mới không được bao lâu thì cả thành phố Huế lên cơn sốt đả đảo TCS và Phạm Duy. Các biểu ngữ được giăng ở các trường đại học và TCS phải lên Đài truyền hình Huế đọc bài tự kiểm điểm. Sự cố lần này cũng lại do một nhạc sĩ tổ chức, nhạc sĩ Trần Hoàn, Giám đốc Sở VH&TT tỉnh Bình Trị Thiên. Thế là TCS đã tránh được vỏ dưa SG nay lại găp vỏ dừa Huế! Sự bé cái lầm lần này, có lẽ do TCS đã kỳ vọng ở bạn mình quá nhiều nhưng thực tế vai trò trong lực lượng tiếp quản Huế của Hoàng Phủ Ngọc Tường và Nguyễn Đắc Xuân rất khiêm tốn, chính họ cũng đang phải cố gắng phấn đấu để được kết nạp vào đảng thì làm sao bao che cho tác giả của 2 ca khúc từng bị người CSVN kết án (Ca khúc Gia Tài Của Mẹ với câu: “Hai mươi năm nội chiến từng ngày” đã xúc phạm đến đại cuộc chống Mỹ cứu nước của người CSVN và ca khúc Cho Một Người Nằm Xuống để thương tiếc Lưu Kim Cương - đại tá không lực VNCH chết bởi đạn của quân GPMN - người bạn một thời đã từng dùng máy bay không quân đưa TCS lên Đà Lạt thăm Khánh Ly hoặc ngược lại, đón Khánh Ly về hát với TCS) tại Sài Gòn?

Lần này ở Huế, tính tẩy chay TCS nghiêm trọng và công khai hơn hẳn vụ ở Đài Phát Thanh SG vừa qua. Tình bạn cũ trong trái tim TCS sụp đổ đã đành mà giấc mơ “Khi đất nước tôi thanh bình/Tôi sẽ đi thăm…” tưởng dễ thực hiện của anh cũng bị dập tắt. Những tháng ngày tiếp theo ở Huế, TCS sống như một con tin trong Hội Văn Nghệ Bình Trị Thiên, thường xuyên được tổ chức bố trí đi lao động thực tế trên những cánh đồng vào mùa khô cũng như mùa lụt, không hơn gì một người phải chịu cải tạo.

Cuộc Chạy Trốn Lần Thứ 2

Tuy nhiên, đang kẹt trong cái thế “tiến thoái lưỡng nan” này ở tại chính quê nhà, nơi mình từng tham gia hoạt động đấu tranh chống Diệm rồi chống Mỹ-Thiệu trong Phong Trào Đô Thị Huế với Hoàng Phủ Ngọc Tường, Ng K, Nguyễn Đắc Xuân,… cũng không xong mà về lại Sài Gòn thì càng nguy hiểm thì một vị cứu tinh kịp xuất hiện, ông Võ Văn Kiệt - nhà lãnh đạo công sản cao cấp tiếp quản Sài Gòn lúc bấy giờ. Một cuộc vượt biên nội địa đưa TCS vào lại Sài Gòn sau khoảng 1 năm anh phải “đi thực tế” tại các vùng quê tỉnh Bình Trị Thiên được bí mật tổ chức do ông Kiệt uỷ thác cho nhà văn cộng sản Nguyễn Quang Sáng thực hiện thành công. Từ đây, dưới sự ưu ái của ông Kiệt và nhà văn Nguyễn Quang Sáng được uỷ nhiệm của thượng cấp chăm sóc TCS, cái hạn bị hăm doạ hay trù dập với người nhạc sĩ lãng mạn cách mạng này đã kết thúc.
Qua những “sự cố” như thế, có thể thấy TCS đã mắc những sai lầm với người CS như sau:

- Thiếu minh bạch trong suy nghĩ về chiến tranh VN và tính hai mặt trong quan hệ xã hội.
- Không ở trong một đường dây của tổ chức và chịu sự lãnh đạo của tổ chức đó.
- Không dám thoát ly đi theo MTGPMN.

Và những sai lầm của TCS với phía VNCH:

- Kêu gọi phản chiến nhưng chỉ nhằm vào phía VNCH.
- Thiên về phía người CSVN ngay cả sau khi bị họ giết hụt trong vụ Tết Mậu Thân ở Huế.
- Chống lại phía đã tạo cho mình điều kiện học hành và tự do sáng tác, kể cả tự do tư tưởng dù có bị chế độ SG hạn chế và kiểm duyệt, nhưng không quyết liệt tiêu diệt như đã được thổi phồng (dùng giấy của Hoàng Đức Nhã cấp để đi đường do Phùng Thị Hạnh trung gian, nhiều sĩ quan VNCH che dấu,…) để có một nhạc sĩ Trịnh Công Sơn tồn tại lừng lẫy như thế cho đến ngày 30-4-75. Dù ý thức chính trị ra sao, Trịnh Công Sơn vẫn là sản phẩm của chế độ VNCH đúng như Đặng Tiến đã nhận định trong một bài viết ở đâu đó mà tôi không còn nhớ tên.

Bước Ngoặt “Mỗi Ngày Tôi Chọn Một Niềm Vui”

Sa Lầy vào Rượu và Xu Nịnh

Cuối tháng 5-1978, tôi ra khỏi trại cải tạo, gặp lại TCS. Lần nào đến nhà anh ở 47c Phạm Ngọc Thạch-Sài Gòn, sáng hay chiều, cũng thấy TCS ngồi nhậu rượu Ararat, một loại cô-nhắc Nga (sau “đổi mới” chuyển qua rượu chát đỏ của Pháp, và sau cùng là Whisky Chivas) với Nguyễn Quang Sáng và một số bạn “mới”. Tôi cảm thấy có một điều gì đó không ổn, hình như tôi, một thằng sĩ quan Nguỵ đi tù về, không còn được TCS và gia đình coi là người thân như ngày xưa. Thái độ khó chịu của tôi mỗi lần ngồi trước mặt những người bạn “mới” này của Sơn đã khiến tôi bị TCS và gia đình tẩy chay ngầm.

Thực ra, tôi đã bị TCS và nhóm bạn Huế cũ loại ra từ những năm tháng tôi đi lính VNCH mà tôi không hề biết. Sau này, hoạ sĩ Tôn Thất Văn (đã chết) đã kể lại cho tôi rằng có những cuộc họp ở Huế vào những năm 60-70, TCS và những người mà tôi đã coi là bạn thân tình đã đem tôi ra để phê phán, tẩy chay vì tôi đã không trốn lính và đứng về phía Quốc Gia. Rất tiếc, trong số này lại có cả Đinh Cường, người đã từng học cùng trường mỹ thuật, ở cùng nhà, và do tôi giới thiệu làm quen với TCS, do tôi kết nối với anh bạn Thọ giàu có ở Đà Lạt để có những tháng ngày cùng TCS rong chơi thơ mộng khi lưu lại căn phòng anh Thọ đã thuê cho tôi tại biệt thự số 9 đường Hoa Hồng hay ở trong căn nhà sàn gỗ thơ mộng bên một dòng suối róc rách trong một hóc núi của thị trấn Đơn Dương từ trước khi tôi rời Đà Lạt về Sài Gòn năm 1964 theo giấy gọi vào quân trường sĩ quan trừ bị Thủ Đức khoá 19. Và cả những tháng ngày nhàn nhã làm sinh viên sĩ quan tại đây vào năm 66 hay 67, lúc này tôi là sĩ quan huấn luyện CTCT và phụ trách một phần nguyệt san “Bộ Binh”. Sau ngày 30-4-75, với cấp bậc Trung uý ngành Công binh VNCH, Đinh Cường trở lại Trường Mỹ Thuật Huế và được miễn đi học tập cải tạo nhờ vào việc đã tham gia các hoạt động đấu tranh chống VNCH của nhóm Hoàng Phủ Ngọc Tường, Ngô Kha, Nguyễn Đắc Xuân, TCS,.., nhiều năm trước.

Có một kỷ niệm đặc biệt với Đinh Cường mà tôi cũng muốn nói ra luôn sau bao nhiêu năm cố giữ chặt trong lòng, để lòng mình thôi nặng trĩu và cũng minh chứng cho một tình bạn không hề có thật mà anh ấy đã dành cho tôi, mà tôi đã hằng chục năm cố nghĩ khác đi, cố không tin. Sự việc xảy ra như thế này: Ngày 1-5-75, 8g sáng tôi đến nhà Đinh Cường ở đường Nguyễn Đình Chiểu cũ, gần chợ Tân Định để xem tình hình như thế nào. Như thường lệ tôi vẫn đến đây dễ dàng như người trong nhà nên rất tự nhiên bước lên cầu thang dẫn lên căn gác của bạn mình. Thế nhưng chị TN, vợ Đinh Cường đã chặn tôi lại ở giữa cầu thang và nói Đinh Cường đi khỏi rồi. Tôi không tin và nói lớn là có hẹn trước, lúc đó Đinh Cường mới nói vọng xuống để tôi lên. Khi lên tới nơi thì đã có mặt của Bác sĩ Trương Thìn, Nhạc sĩ Miên Đức Thắng cùng ngồi đó. Tôi gượng gạo ngồi xuống và Đinh Cường nói với 2 vị khách kia như hỏi ý: “Mình cấp cho TC cái giấy chứng nhận thuộc Thành Phần Thứ 3 nhé!”. Lập tức tôi đứng lên và từ chối: “Không, hãy để tôi chịu trách nhiệm với họ, và Thành Phần Thứ 3, Thứ 4 gì họ cũng dẹp sạch thôi!”…

Với TCS, gia đình cùng các “đồng chí” rượu của anh, tôi lúc này là một kẻ xa lạ, một người lạc hướng, môt cái gai khó chịu, một con kỳ đà làm cho cuộc vui hoan lạc của họ không được hoàn hảo, tôi nên biến đi. Nhưng tôi lại là một gã ngoan cố, tự cho mình nhiệm vụ phải ngồi lại để làm Sơn tỉnh táo hơn, để những tiếng nói bớt đi những lời xu nịnh. Ý thức được rượu, phụ nữ và xu nịnh là một loại ma tuý tổng hợp đang nhấn chìm TCS được nguỵ danh dưới khẩu hiệu “Mỗi ngày tôi chọn một niềm vui” nên tôi cố chiụ đựng sự khó chịu của họ và vẫn không tìm cách lấy lại chỗ đứng thân thiết vốn có với TCS thủa còn trai trẻ ở Huế bằng rượu chè, quà cáp đắt tiền và những tán tụng nuông chìu. Tôi vẫn đứng trên đôi chân liêm sỉ và theo đuổi một thứ nghệ thuật tri thức, đó là chỗ mà TCS, trong thâm sâu của tâm hồn anh, không thể loại bỏ tôi cho dù có khác nhau về quan điểm chính trị và cách sống. Đó cũng là điều mà TCS trong những lúc cô đơn nhất đã đến gõ cửa nhà tôi bất kể đêm khuya hay khi bình minh vừa ló dạng để hàn huyên hoặc khoe và hỏi ý kiến tôi về bức tranh mà anh vừa vẽ.

Điều Đáng Tiếc

Trong thời buổi sống như một kẻ bên lề của một Sài Gòn đã bị đổi tên và những người bạn thân một thời hồn nhiên như thế nay cũng đã cúi mình, ngoan ngoãn làm những con rối của chế độ mới, quay lưng lại với thân phận khốn đốn của đồng loại, tự huỷ tri thức, lương tâm, thứ một thời nhờ nó đã làm nên những ca khúc tranh đấu cho thân phận và tự do con người, nay chọn cho mình con đường sa lầy vào rượu, thuốc và phụ nữ, tôi thấy mình thật sự cô độc và bất lực trước sự sụp đổ từng ngày của một người bạn tài hoa nhất mà tôi từng yêu quí. Nhiều khi tôi muốn nói với bạn mình: “Tại sao cậu lại sa đà vào những cuộc chơi phù phiếm? Tại sao cậu không viết những ca khúc cho thân phận VN 2 đang bị một thứ xiềng xích vô hình nhưng vĩnh cửu, vì nó được khoá bởi chính người VN chứ không phải ngoại bang? Hay ít ra thì cậu nên sống yên lặng như một cái bóng, một hòn đá tảng vì cái giấc mơ hoà bình, thống nhất quê hương của cậu dù không phải nguyên nhân chính gây ra sự sụp đổ hoàn toàn nền Cộng Hoà trẻ tuổi MNVN, nhưng về mặt tâm lý cũng đã ít nhiều làm lợi cho phía bên kia, vô tình đồng loã với kẻ đã gây ra cái bi kịch thảm khốc cho hằng triệu người Việt từng ái mộ, tôn thờ cậu nay phải bỏ nước ra đi bằng giá của cái chết không được chôn cất, bằng sự tật nguyền tinh thần, nếu may mắn đến được bờ tự do thì bạn cũng đáng được cảm thông… Vì tôi biết chắc chắn một điều là tất cả những trí thức thiên tả VN như cậu cũng đều không chờ đợi một kết cuộc cho đất nước theo cách như đang diễn ra…”. Nhưng có lẽ trực giác của tôi đã mách bảo rằng điều ấy nằm ngoài khả năng của TCS, cứ để cuộc sống của anh phụ thuộc vào bản năng, đã tiêu vong rồi một TCS mạnh mẽ dấn thân, mạnh mẽ ca hát cho hoà bình đất nước, cho dân tộc ấm no, bình đẳng, tự do và hạnh phúc như ngày nào. Thời cuộc làm ra TCS đấy thôi, anh không phải là người làm ra thời cuộc, nên tôi đã nghẹn họng.

Ảo Tưởng Cuối Cùng

Dần dà rồi TCS cũng tìm lại cho mình một phần phong độ sáng tác nhờ hấp thụ những ngọn lửa nhỏ từ những nhan sắc phụ nữ và sự trân trọng (theo chủ trương) của những nhạc sĩ thuộc Hội Âm Nhạc TP HCM như Xuân Hồng, Hoàng Hiệp, Thanh Tùng, Tôn Thất Lập, Trần Long Ẩn,… và một nhóm nhạc do họ tổ chức có tên “Những Người Bạn” ra đời khoảng thập niên 90, và TCS được coi là đầu đàn. Anh trở thành nhân tố quan trọng nhất trong việc thu hút sự chú ý của công chúng mỗi khi anh có mặt trong các show diễn của nhóm. TCS cũng là một tiếng nói có trọng lượng nhất đối với nhiều tên tuổi hàng đầu của nhạc cách mạng VN như Văn Cao, Trọng Bằng, Hồng Đăng,… trừ ông nhạc sĩ Bộ Trưởng Bộ VH&TT Trần Hoàn (đã nghĩ hưu), người từng mở chiến dịch đả đảo anh một thời ở Huế, là vẫn tiếp tục nhìn TCS như một kẻ xấu.

Dù gì thì thế đứng chính trị của TCS cũng đã được tốt hơn trước rất nhiều, có phải vì thế mà anh đã chủ quan nghĩ mình là người đến lúc nên đứng vào hàng ngũ của đảng?

Sơn đem ý định này nói với tôi, tôi liền can:“Không nên Sơn ơi, cậu đang là một nhân vật âm nhạc lớn, người ta nể trọng vì ảnh hưởng của cậu đối với công chúng rất lớn cũng như quốc tế. Nay cậu trở thành đảng viên mới tò te còn ai coi trọng nữa. Nếu ông Hoàng Hiệp chống lai là may cho cậu lắm đó!”. Tôi đã nói với TCS như thế và TCS im lặng. Tuy nhiên không phải nhờ sự phân tích ấy mà TCS không trở thành đảng viên Đảng CSVN, mà bởi sự ngăn cản của nhạc sĩ Hoàng Hiệp, người giữ vai trò chính trị của Hội Âm Nhạc TP HCM và cũng là cán bộ có trách nhiệm quản lý TCS. Trong một lần bất bình vời Hoàng Hiệp về việc bị kiểm điểm, TCS đã chửi thẳng vào mặt Hoàng Hiệp ngay tại trụ sở Hội Âm Nhạc TP HCM:”Mày là thằng mặt lồn!”.

Đã không những không được vào đảng, TCS còn được cho về hưu để vĩnh viễn kết thúc giấc mơ - ảo tưởng cuối cùng của anh.

Cái Chết - Vinh Quang Đích Thực

Nếu con đường chính trị đối với TCS là một con đường dẫn anh xuống vực thẳm thì cái chết là một kết thúc hoàn hảo. Hay nói một cách khác, nó đã giải cứu và trả lại vinh quang đích thực cho anh - vinh quang dành cho di sản ca khúc TCS.

Không chỉ niềm vinh quang này bừng sáng huy hoàng bởi hàng chục ngàn người yêu âm nhạc của anh ở trong nước tiễn đưa anh đến nơi an nghỉ cuối cùng, mà người Việt trên khắp thế giới cũng nhỏ lệ tiếc thương, nhất là người Việt ở Mỹ, nơi mà Trịnh Công Sơn lúc sinh tiền không dám đặt chân đến dù không ít lời mời. Một lễ tưởng niệm long trọng được tổ chức tại Hội trường báo Người Việt với sự tham dự đông đảo của nhiều giới khác nhau trong cộng đồng ở cả Nam và Bắc California ngay trong đêm 1-4-2001, điều mà trước đó không ai dám nói công khai về tình cảm của mình với TCS ở chỗ đông người tại Mỹ.

Lời Kết

Sau 8 năm Trịnh Công Sơn ra đi, mọi cảm xúc thương tiếc sau cái chết của anh trong mỗi chúng ta cũng đã phần nào chìm lắng, hôm nay, tôi quyết định và chọn lựa thời điểm này để viết về một góc khác, một phương diện khác của Trịnh Công Sơn mà chưa ai viết hoặc viết một cách có hệ thống.

Bài viết này chắc chắn sẽ gây ra sự mất mát tình cảm, sự đổ vỡ các mối quan hệ vốn có của tôi, vì một số những nhân vật được đề cập nay đang còn hiện diện trong cuộc đời. Sự thật bao giờ cũng gây mất lòng, tôi đã tự hỏi mình nhiều lần trong nhiều năm qua: có nên viết nó ra, giải thoát cho nó khỏi ngục tù trong tôi suốt hơn 30 năm qua? Sự quằn quại của nó trong cái nhà tù ký ức cũng làm tôi đau buồn đến không chịu nổi. Giải phóng cho nó là giải phóng cho chính tôi, dù có phải bị trả giá.

Đó là về phần cá nhân tôi, còn đối với TCS, bài viết này tôi muốn bổ sung thêm những điều mà trong các cuộc nói chuyện về TCS ở Mỹ tôi đã không thể nói hết được. Một nửa sự thật cũng chưa phải là sự thật. Tôi tin vào điều tốt đẹp của sự thật. Nó có thể sẽ làm tan đi hình ảnh một TCS được tô vẽ bởi những huyền thoại và ảo ảnh lấp lánh trong lòng ai đó, nhưng sẽ trả lại một TCS thiên tài đích thực của âm nhạc như nó vốn có, để mọi người nếu đến với nhạc Sơn thì sẽ có được cơ may yêu mến trọn vẹn một con người có thực, chứ không phải một thứ tượng đài được nhào nặn, tô vẽ và dựng lên vì một mục đích riêng. Đã đến lúc sự thật đó cần được trả lại cho những người Việt đã, đang và sẽ mãi còn coi nhạc Trịnh là lẽ sống của mình, mang nó theo mình như một thứ tài sản vô giá dù đi đến bất kỳ đâu, dù ở chiến tuyến nào.

Tất nhiên, những lập luận và lời kể trong bài viết này dựa vào những gì tôi đã trải qua, những tư liệu riêng và những tư liệu của những người bạn cũ của TCS mà họ đã công khai phổ biến trên các phương tiện truyền thông, và vì thế chắc chắn còn thiếu sót tất yếu, vì tôi biết còn nhiều sự thật đang được cất dấu bởi những người có quan hệ cận kề với TCS trong từng giai đoạn của lịch sử VN từ 1954 đến hôm trước khi TCS qua đời mà họ vì những lý do nào đó chưa tiện nói ra. Tôi xin cám ơn những ai sẽ đóng góp thêm những gì giúp cho bài viết này được hoàn hảo hơn, kể cả những phản biện.

Sau cùng, mỗi con người Việt Nam đã trải qua và sống sót sau cuộc chiến tranh khốc liệt vừa qua đều giữ trong mình những sự thật riêng, một gốc nhân chứng riêng, xin quí vị hãy trả lại nó cho lịch sử, nếu được như thế thì tấm gương lịch sử VN mới trong sáng được. Cũng vì điều này, cho tôi xin lỗi những gì mà bài viết có làm tổn thương đến một ai đó cũng là vì không còn sự lựa chọn nào khác.

Sài Gòn 29/3/2009
TRỊNH CUNG
———————————————————————————–
Tư liệu tham khảo:
1. Như Những Dòng Sông, Hoàng Tá Thích, Nhà Xuất Bản Văn Nghệ 2007.
2. Trịnh Công Sơn, Cuộc đời, Âm nhạc, Thơ , Hội hoạ & Suy tưởng, Nhà Xuất Bản Văn Hoá Sài Gòn, 2005.
3. Thư TCS gửi Ngô Kha, nguồn: http://www.gio-o.com
4. Sự thực Thư Gửi Ngô Kha, Nguyễn Đắc Xuân, phần phỏng vấn Lê Khắc Cầm, nguồn: http://www.gio-o.com
5. Có nghe ra điều gì, Thủ bút của TCS nói về trách nhiệm của mình với đám đông (Tư liệu của Bác sĩ, nhà văn Thân Trọng Minh - Lữ Kiều).

Wednesday 1 April 2009

Chủ nghĩa thực dân mới mang đặc sắc Trung Quốc (April 02, 2009)

La Chine mélange le riz avec le néo-colonialisme

Lorsque la Chine, l’un des pays les plus corrompus dans le monde, commence à distribuer des milliards de dollars en forme d’aide et de contrats d’affaires en Afrique, continent le plus corrompu du monde, les alarmes sonnent à Washington et dans d’autres capitales occidentales. Le fait que la Chine tourne un oeil aveugle envers les abus très répandus de droits de l’Homme dans ce continent intensifie encore plus les inquiétudes de l’Occident.

Sécuriser l’approvisionnement du pétrole constitue la principale raison pour l’agressivité de la Chine pour développer ses liens économiques avec l’Afrique. Afin d’alimenter sa croissance économique phénoménale qui a fait une moyenne annuelle de plus de 9% ces 20 dernières années, la Chine a besoin de pétrole ainsi que de matières premières. N’étant pas riche en réserves pétrolières, la Chine est devenue de plus en plus dépendante du pétrole importé.

Entre temps, l’Afrique abrite 8% des réserves mondiales de pétrole, ce qui incite la Chine à dépenser des milliards de dollars dans le but d’obtenir les droits de forage au Nigeria, au Soudan et en Angola tout en négociant des contrats d’exploration avec le Tchad, le Gabon, la Mauritanie, le Kenya, la Guinée Equatoriale et la République du Congo. Le continent représente actuellement 25% des importations pétrolières de la Chine. Par contre, les Chinois sont aussi les investisseurs principaux dans l’industrie de cuivre en Zambie et dans la République Démocratique du Congo. De plus, ils sont en train d’acheter du bois au Mozambique, au Liberia, au Gabon, au Cameroun et en Guinée Equatoriale.

En échange de l’énergie, des ressources minérales et d’autres matières premières, la Chine fournit l’aide et l’assistance technique en offrant des prêts sans intérêt aux gouvernements africains qui sont très adaptés aux besoins des affaires. En même temps, les compagnies chinoises ont gagné des contrats pour construire des autoroutes, des pipelines, des barrages hydroélectriques, des hôpitaux, des stades et pour moderniser des chemins de fer, des ports et des aéroports. Dès qu’il y a des endroits où les compagnies occidentales ont peur des faibles marges bénéficiaires ou des préoccupations environnementales ou politiques, les chinois s’y lancent. Les compagnies publiques de Chine sont capables de mettre les bénéfices à court terme de côté en se concentrant sur les plans économiques à long terme du gouvernement.

Quant aux scrupules environnementales et politiques, les dirigeants chinois ont fait comprendre qu’ils n’en ont pas beaucoup. Ainsi, l’approche sans condition pour faire les affaires en Afrique est en contradiction flagrante avec les soucis de l’Occident à l’égard du développement démocratique et du respect pour les droits de l’Homme. L’offre est clair : en échange des matières premières sécurisées nécessaires pour alimenter son économie vorace, la Chine ne s’ingérera pas dans les affaires internes des gouvernements africains, même si ces gouvernements sont connus pour leur corruption endémique et pour leurs abus des droits de l’Homme.

L’élite dirigeante de l’Afrique est également contente lorsque les Chinois pompent de l’argent et des marchandises bon marchées dans leurs économies sans poser aucune pression à propos de la démocratie et des droits de l’Homme qu’ils se sont habitués à entendre des partenaires occidentaux. Grâce à la Chine, la demande du pétrole, du cuivre et du platine africains augmente alors que toutes les choses fabriquées en Chine allant des tee-shirts aux ustensiles en passant par des motos sont en vente libre partout dans le continent aux prix beaucoup plus bas que ceux et celles importés d’ailleurs.

Certainement, les dirigeants africains comme Robert Mugabe du Zimbabwe et Omar Hasan Ahmad al-Bashir du Soudan sont reconnaissants à la Chine pour sa promesse d’un partenariat égal avec leurs nations. Au Soudan, Pékin est l’un des fournisseurs d’armes les plus importants de Bashir. La Chine a soutenu la résistance du président à l’encontre du stationnement des troupes de maintien de la paix dans la région du Darfour, là où les Etats-Unis ont accusé le génocide autorisé par le gouvernement d’avoir tué des centaines de milliers de personnes. L’appui chinois n’a étonné personne compte tenu du fait que plus de la moitié des exportations pétrolières du Soudan vont en Chine. En tout, le Soudan représente 5% du pétrole consommé par la Chine.

Les relations de la Chine avec les nations telles que le Soudan font craindre les officiels à Washington que l’investissement chinois ne puisse être utilisé, soit directement soit indirectement, pour soutenir les terroristes. Pour Pékin, cela montre juste un autre exemple de la pensée alarmiste de la Maison Blanche qui est apparemment déterminée de contenir l’essor de la Chine comme puissance mondiale.

Tandis que les dirigeants chinois et africains arrosent ce que Pékin qualifie d’une relation « à double gagnant », les africains moyens ne pourraient pas être tellement ravis. Dans un continent où près de la moitié de la population vit de moins d’un dollar par habitant par jour, une voiture ou un climatiseur bon marché, ou même un nouveau tee-shirt reste encore hors de portée des personnes ordinaires.

C’est vrai que les Africains ont besoin d’emplois. Bien qu’il n’y ait pas de question que les projets chinois ont créé des emplois dans certains endroits, ils ont évidemment fait perdre des emplois dans d’autres. Par exemple, en Afrique du sud et au Lesotho, on reproche la perte de dizaines de milliers d’emplois locaux dans l’industrie textile aux importations moins chères de Chine, alors la Chine a insisté sur l’embauche de travailleurs chinois dans les projets de rénovation des chemins de fer en Angola.

Bien que la politique africaine de Chine ait gagné les coeurs et les cerveaux des dirigeants du continent, le peuple africain traîne bien derrière ces « élites ». Le peuple attend de voir si le modèle d’engagement avec le continent sera différent de celui des puissances coloniales d’exploitation dans le passé.

Jusqu’ici, avec la Chine utilisant le continent comme une source de matières premières et comme un dépotoir pour ses propres biens manufacturés, la formule semble pareille.

(TMH, d’après Asia Times)

Saturday 28 March 2009

Về những giọng ca nam của Việt Nam( March 29, 2009)

Clip minh họa: AC&M hát Anh vẫn hành quân của Huy Du. Băng tư liệu Con đường Âm nhạc số 18- Chân dung nhạc sỹ Huy Du.

Trao đổi với anh Trần Thanh Tú* về giọng hát của các nam ca sỹ Việt Nam:

1. Thôi thì mấy ông Trần Thụ, Mai Khanh, Quốc Hương, Trần Khánh,Trung Kiên, Quý Dương, Kiều Hưng, Trần Hiếu thì anh em mình sẽ chuyển sang bình luận về cảm thụ sau vì mức độ phổ cập trong danh tiếng của họ cũng khá cao... Nhưng chưa thấy anh nói về Tiến Thành, một người cùng thời với anh. Em gọi Tiến Thành là “Nghệ sỹ đặc biệt” trong phân loại tư liệu của các ca sỹ trong bộ sưu tập của em. Em có một bài khá dài trên blog về Tiến Thành, nhưng chủ yếu là dựa vào trí nhớ chắp ghép của em… Nhóm Tiến Thành, Huy Hùng, Đăng Khoa, Hữu Nội rất hay hát cùng nhau. Dù cho phần lớn các bài đồng ca của Đài không có giới thiệu từng ca sỹ, nhưng em có thể tách giọng từng người ra một. Giọng ông Đăng Khoa hơi xù xì, thô ráp nhưng có sức hút kỳ lạ. Huy Hùng có lúc hơi nhạt, nhưng em thấy giọng hát rất trẻ và tình tứ. Cũng là người Hải Phòng anh nhỉ. Ông Hữu Nội thì nhìn hình thức đúng là một ông nghiện, nhưng giọng nam cao của ông ý ở Việt Nam hiếm thật. Trong dàn hợp xướng giọng ông ý át tất cả các giọng khác ... Đặc trưng vibrato của Hữu Nội theo em là “phép rung” chứ không phải “tật rung” như Lê Dung đời đầu anh nhỉ J. Doãn Tần thì anh có nói qua và nhiều người biết. Nhưng cùng kiểu giọng như Doãn Tần em nhớ còn có Hoàng Chè. Lần làm chương trình 50 Điện Biên Phủ em có gặp chú ấy, nhưng chả có dịp nói chuyện. Hoàng Chè có bài "... hỡi đồi cao A1 ... đến Điện Biên hôm nay lòng như say điệu hát. Có mùa hoa ban ở trên nẻo đường quê xa. Có tình yêu muôn thuở là Điện Biên quê ta" hay ghê. Mà em nhớ đọc ở đâu đó có nói Hoàng Chè là thanh niên Hà Nội thứ thiệt.

2. Có những giọng nam hiền lành như anh đã nói là Ngọc Tú. Ngoài bài Mời anh đến thăm quê tôi được dàn dựng, hòa âm rất hay em còn rất thích bài Cánh chim tuổi trẻ (Tạm biệt phố phường Hà Nội, tạm biệt những mái trường … ta đi tới những miền đất mới, ta mang sức trẻ của mùa xuân …). Ngày nay có Phạm Văn Giáp có giọng gần giống Ngọc Tú. Bên cạnh Ngọc Tú em thấy có Trung Bộ của Văn công QK2 cũng có giọng nam trung hiền lành như trong "Lim dim câu hát sông cầu". Ông Trung Bộ còn hát rất hay trong tốp ca của bài Tiếng đàn bên bờ sông biên giới của Phạm Tuyên (mà những năm 80 VTV sử dụng làm nhạc hiệu chương trình ca nhạc). Có giọng nam cũng hiền lành và hơi "mềm" là Minh Quang của TCCT. Minh Quang này em rất thích khi ông ấy hát Lá đỏ, Ta ra trận hôm nay. Minh Quang song ca với Lê Dung bài Củ Chi yêu thương rất hay và nhiều bài khác nữa. Sau này có Minh Quang trẻ trẻ nữa. Nhưng Minh Quang này giọng "mô phạm" giống kiểu Trần Tựa, Trọng Thủy là những chất giọng mà em không được thích cho lắm :) Hiền lành và hơi cứng nữa thì phải kể đến chú Mạnh Hưng nổi tiếng đẹp trai của TCCT. Trong các bài hát của chú này em chỉ lưu có 2 bài là Cửa biển chiều hôm của Huy Du và Thành phố tôi yêu của Phạm Đình Sáu viết về TPHCM (Đẹp mãi mùa xuân thành phố của tôi, rộn vang tiếng ca ngợi tên Bác Hồ, sức sống sinh sôi nhịp vui hối hả ...) Nhưng em thấy Ái Vân hát bài Thành phố tôi yêu tình tứ và thiết tha hơn nhiều. Ái Vân thu bài này cùng thời với 2 bài của Hoàng Dương là Matxcova một tình yêu và Mai em đi rồi.

3. Rồi còn Phan Huấn nữa. Phan Huấn cũng hiền hiền. Ông ấy có lẽ là người đầu tiên hát Hành khúc ngày và đêm của Phan Huỳnh Điểu. Trong bản nhạc mà Phan Huấn hát không có đoạn “Rất dài và rất xa …” mà thay vào đó là đoạn vocal “hò ơ ơ…”. Phan Huấn cũng là người đầu tiên hát Đàn Tơ-rưng (Nguyễn Viêm & Huy Cận: Anh bắc qua con suối, chiếc cầu phao âm thanh …) với đoạn giả thanh ở câu cuối rất điệu nghệ và đặc sắc. Một trong những tư liệu quý của em lại chính là bài Tình ta biển bạc đồng xanh của Hoàng Sông Hương (tư liệu viết là Rừng xanh) mà ông Phan Huấn song ca cùng Tuyết Thanh. Bài hát này vốn dĩ rất hay, nhưng không hiểu sao VOV không cho lưu hành, tới mức gần đây khi Việt Hoàn, Anh Thơ và một số cặp song ca trẻ khác cover lại thì nhiều người mới biết là có bài hát này. Có người nói, bài này cũng giống như bài Tâm tình người thủy thủ của Đức Minh có hơi hướng nhạc vàng, tiểu tư sản thế nào đó nên ngày xưa bị cấm (!)

4. Bên cạnh mấy giọng nam hiền lành đó thì em còn rất thích những giọng nam khỏe khoắn, rắn chắc kiểu cổ điển, như là Quang Phác trong Hò biển mà anh đã kể sơ qua. Từa tựa như Quang Phác em thấy có Huy Giảng trong Bài ca bên cánh võng, Chiếc ba lô và bài ca tình nguyện, Hãy cho tôi lên đường … Bật hẳn lên trong nhóm này em nghĩ là Quang Hưng. Từ “hào sảng” và “lạc quan” có lẽ là hai từ rất trúng để nói về giọng hát Quang Hưng. Nó khác với “hào sảng” nhưng lại “bi tráng”, “kịch tính” và có khi “u uất” trong giọng hát của Trần Khánh.

5. Tổng hòa các vẻ đẹp của nhiều giọng nam phải kể đến Dương Minh Đức. Theo em đây là một trường hợp đặc biệt. Giọng Dương Minh Đức vừa kinh viện lại vừa trẻ trung. Rất nam tính và lại rất mềm mai, uyển chuyển. Về quãng giọng chắc sánh ngang với Trung Kiên nhưng Dương Minh Đức lại không hát gắt như Trung Kiên. Giọng Dương Minh Đức rất bay nhưng lại không bị mảnh và mái như Doãn Tần, Hoàng Chè, không chói như Hữu Nội. Dương Minh Đức hoàn hảo trong Như sóng về trùng dương của Hoàng Dương hay Nhựa bạch dương (nhạc Liên Xô). Những bài hát gắn chặt với tên tuổi Dương Minh Đức còn phải kể đến Rừng chiều của Vũ Thanh, Tôi là người thợ của Phan Thanh Nam, Hát về Tổ quốc tôi của Hữu Xuân. Bài Sa Pa thành phố trong sương hay nhất thì phải kể đến bản thu giọng hát của Ngọc Khuê (tác giả của Mùa xuân làng lúa làng hoa) với dàn nhạc dây của Đài VOV. Tuy nhiên, nhiều người vẫn thích bản của Dương Minh Đức hơn với lập luận rằng Dương Minh Đức làm toát lên được cái huyền ảo, cái mênh mang của một thành phố trong sương. Bài hát này nằm trong số các ca khúc thời chiến tranh biên giới với Trung Quốc, nhưng không hề có không khí chiến tranh. Có những bài hát gắn liền với tên tuổi của một ca sỹ. Và do đó bất kỳ ca sỹ nào hát sau đó đều được coi là liều lĩnh và khó thành công. Chẳng hạn như Quỳnh Liên và Ngọc Minh không thể cạnh tranh với Thanh Hoa trong Mùa xuân làng lúa làng hoa; Trung Anh lại càng không bao giờ làm được việc đó. Thế nhưng điều này không xảy ra với Dương Minh Đức. Bác Hồ một tình yêu bao la do Dương Minh Đức tồn tại rất chững chạc bên cạnh phiên bản đỉnh cao của Thanh Hoa. Chiều trên bến cảng của Dương Minh Đức cũng không hề bị lu mờ trước tên tuổi của Ngọc Tân… Tuy nhiên, giống như đồng nghiệp nữ của mình là Kim Phúc, giọng Dương Minh Đức ngày nay không còn được như xưa. Thậm chí nhiều người không nhận ra được Dương Minh Đức ngày xưa nếu chỉ quen với giọng hát hiện nay của ông phó hiệu trưởng nhạc viện Quân đội này.

6. Giọng nam trầm của Việt Nam hiếm anh nhỉ? Nếu liệt kê ra thì em chỉ biết có Trần Hiếu và Quang Huy. Trần Hiếu thu ở Đài VOV không nhiều đâu. Em chỉ sưu tập được chưa đến 10 bài, trong đó em thích nhất là “Những viên đạn trao từ đôi mắt” (hay Những đôi mắt mang hình viên đạn). Trần Hiếu hát Hồ Chí Minh đẹp nhất tên Người với dàn nhạc dân tộc pha với dàn nhạc dây rất hay. Đúng là em có nhiều bản, trong đó có 5 bản đỉnh, một của Kiều Hưng, một của Trung Kiên, một của Bích Liên, một của Tuyết Thanh và một của Trần Hiếu thì mỗi bản đều có một cái hay riêng. Ông Trần Hiếu còn thu Hành khúc ngày và đêm, trong đó có một đoạn hát nói rất hay. Còn Quang Huy thì em cực thích bài Đường Trường Sơn xe anh qua. Phải nói bài này hay vì một lý do rất quan trọng là phần phối khí quá hay, tiếng contrebasse sử dụng rất hiệu quả. Quý Dương thu bài này trước Quang Huy, phần phối khí bằng dàn nhạc dây cũng rất hay nhưng có vẻ bản của Quý Dương ít người biết đến hơn. Quang Huy còn hát nhiều bài nổi tiếng khác như Bên lăng Bác Hồ, Lướt sóng ra khơi. Nhưng quả thật em thấy giọng bass của Quang Huy già quá. Nhiều lúc em thấy nó hơi tối. Mà đồng chí Quang Huy này có vẻ cũng là một trong những nam nhân của làng ca nhạc thời đó. Em thấy rất hay song ca cùng Ái Vân.

7. Công nhận mấy ông “Quang” của mảng ca khúc đều “sáng” thật. Ở trên em nói đến Quang Phác, Quang Hưng, rồi Quang Huy. Còn phải kể đến Quang Mạo nữa chứ. Hồi Đoàn Ca nhạc nhẹ Trung ương của Trần Bình làm các Gala và Nhạc hội những năm đầu 90, em nhớ có bài báo giật tít là trong đêm Nhạc hội vừa qua “cả 3 Quang đều tỏa sáng”. Một Quang trong đó là Quang Mạo. Hình như Quang Mạo là người nhà của Ngọc Lan nhạc viện thì phải. Ngày xưa em đọc báo Hà Nội mới thấy nói thế. Quang Mạo dẫn dẵt cho Ngọc Lan vào Nhà hát nhạc vũ kịch hay sao đó. Về Ngọc Lan chắc em sẽ nói tới trong một dịp khác vì hôm nay chúng ta nói về các nam ca sỹ. Nhưng dù sao em cũng nói luôn là mấy cô giáo thanh nhạc “nổi tiếng” hiện nay như Ngọc Lan, Hà Thủy… đều không có tác phẩm để đời trong VOV. Họ hát mấy bài trong VOV đuối lắm…

8. Quang thứ 2 mà bài báo nói đến là Quang Huy thì em đã nói rồi. Còn Quang thứ 3 chính là Quang Thọ. Nói đến Quang Thọ thì em lại phải trở lại với đặc điểm giống Trần Hiếu là Quang Thọ cũng rất có ít bài thu âm tại VOV. Hình như những năm 70, 80, Quang Thọ chả có tên tuổi gì cả, hoặc là ông ấy còn ở văn nghệ quần chúng, còn ở địa phương. Em tuyệt nhiên không tìm được bản thu âm nào của Quang Thọ lúc trẻ. Đến Đức Long, cũng là người Quảng Ninh, mà em còn tìm được bản thu năm 1979, khi đó tên là Đỗ Đắc Long (không biết các kỹ thuật viên có ghi nhầm tên không, nhưng giọng thì đúng là của Đức Long). Nhưng với Quang Thọ em chỉ tìm được các bản thu sau này. Và em cũng chỉ lưu hai bản là Vang mãi bản tình ca của Trọng Bằng và Ta tự hào đi lên ôi Việt Nam là hai bản mà em rất “chịu” Quang Thọ. Còn thực ra em không khoái giọng Quang Thọ lắm đâu vì em thấy chú ấy cứ ngậm miệng lại, tiếng hát nó trở nên không khoáng đạt.

9. Cũng là nghệ sỹ nhân dân nhưng rất ít bản thu trong hai thập kỷ 70 và 80 tại Đài là đồng hương của em, và cũng là đồng hương của bà Thương Huyền, đó là Trung Đức. Trong “thời xa vắng” của nhạc VOV, em tìm được mỗi một bản của Trung Đức là Hò biển. Giọng vang, sâu và bay lắm, chứ không bị gân guốc như gần đây. Nhưng bù lại sự thiếu hụt thuở xưa, Trung Đức thu âm khá nhiều trong những năm cuối 80 và đầu 90. Nhưng em lại xếp những bản thu đó vào nhóm “Nhạc trẻ thập niên 80-90” chứ không phải nhóm “Kinh điển Việt Nam” trong tổ chức bộ sưu tập của em. Phải công nhận loạt bài thời đó của Trung Đức thực sự khiến chú ấy là sao của bầu trời ca nhạc Việt Nam khi đó, nhất là trên truyền hình, cùng với Thanh Hoa, Thu Hiền là những người có tần số xuất hiện trên truyền hình vào hàng số một. Những tác phẩm để đời của Trung Đức phải là Thì thầm với dòng sông, Đi tìm câu hát lý thương nhau, Hoa bằng lăng, Biển hát chiều nay… Nhưng em nghe nói, cũng như Mạnh Hà, thậm chí cả Lê Dung, Trung Đức rất khổ sở về nhịp. Như thế là sao nhỉ? Như thế thì có lẽ họ nên hát với piano anh nhỉ?

10. Thời kỳ Trung Đức oanh tạc ở miền Bắc và trên truyền hình thì em nhớ là ở miền Nam có Quang Lý, Thế Hiển, Lê Hành rất sáng. Lê Hành tất nhiên có Con kênh ta đào được em xếp vào nhạc kinh điển. Nhưng chủ yếu, cũng như Trung Đức, em xếp các bài hát của mấy vị này vào phần nhạc trẻ. Sau này thì thấy rằng, nói một cách thật chính xác thì họ là thế hệ chuyển tiếp, là cái gạch nối giữa kinh điển và nhạc trẻ. Thời kỳ của họ đánh dấu giai đoạn cuối cùng trong tính “nhất nguyên” trong đời sống âm nhạc Việt Nam trước khi chúng ta chuyển sang thời kỳ “tam giáo đồng nguyên” trong đó nhạc đỏ, vàng, xanh cùng tồn tại, cùng phát triển mà em sẽ bàn với anh trong dịp khác… Quang Lý sau này em không thích lắm, giọng giống Ngọc Tân lúc về già, tức là mũi bị sao đó, nhưng không sáng bằng Ngọc Tân. Tuy nhiên Quang Lý hát Thuyền và Biển và đoạt giải 3 trong cuộc thi đơn ca chuyên nghiệp toàn quốc năm 88 thì thật là không ai bằng. Thế Hiển năm đó hát Đất nước, Chuyện ngày xưa chuyện ngày nay, Cây đàn ghita của Lorica cũng trở thành những bài đóng đinh trên sóng VOV cho tới nay. Vì Lê Hành hát một bài hit thời kỳ đó là Một rừng cây một đời người mà em xếp chú ấy vào nhóm nhạc trẻ 80-90!

11. Thật lạ là sau lớp Trung Đức, Quang Lý thì chúng ta bị gián đoạn một thời gian, không có gương mặt nào sáng bật lên. Nói đúng ra thì lớp sau phải kém lớp Trung Đức, Quang Lý 10, 15 tuổi. Hồi đó thì nhạc trẻ miền Nam và Hải Đăng nổi quá rồi với Ngọc Sơn (Chiếc vòng cầu hôn), Thanh Nam (Câu chuyện nhỏ của tôi), Anh Duy (Thuyền và biển), Đỗ Hữu Xuân (Trở về dòng sông tuổi thơ)... Hay dòng nhạc Phú Quang, Dương Thụ, Trần Tiến nổi lên làm nổi danh Thanh Long bass, hay Nguyễn Hoàng với Tùy hứng lý qua cầu. Nhưng đó là nhạc trẻ và toàn là ở phương Nam. Còn nhạc đỏ thì cũng chính các nam ca sỹ ở miền Nam mới chiếm lĩnh thị trường. Đó chính là phong trào các ca sỹ miền Nam hát nhạc đỏ với đầy đủ những Lệ Thu (Trường Sơn Đông, Trường Sơn Tây), còn nam ca sỹ thì có Thế Sơn (cover lại Lá đỏ, Ngọn đèn đứng gác) hay Quang Bình (Trang Thanh Lan), thậm chí cả Nguyễn Hưng … Nhưng đó cũng là kiểu hát nhạc đỏ mà em mãi không làm quen và chấp nhận được. Điều em muốn nói ở đây là lúc này ở miền bắc các nam ca sỹ trẻ thật sự là thiếu. Minh Thắng có thấp thoáng xuất hiện ở Đoàn ca nhạc nhẹ trung ương với mấy bài, như Thuyền và biển (Hữu Xuân) hay Điều giản dị, Mùa xuân tương lai nhưng sau đó biến mất hoàn toàn. Quang Vinh thì không hẳn là ca sỹ. Bên Nhà hát Tuổi trẻ thì Hồng Kỳ, Thanh Tùng bắt đầu lo chạy theo nhạc trẻ của thị trường. Phải đến 93, 94 Tấn Minh mới xuất hiện nhưng chủ yếu là kiểu ca sỹ học trò và không xác định được rõ thế mạnh. Cũng trong thời kỳ xuất hiện Tấn Minh thì khán thính giả rất có cảm tình với các sinh viên của Trường Văn hóa nghệ thuật quân đội với các gương mặt như Ngọc Lê, Hồng Hải, Minh Hoa, Hương Mơ. Nam thì có Thế Vũ, Hồ Tùng. Hồ Tùng sau này vì mắc bạo bệnh nên sức khỏe suy sụp, có thời em thấy chuyển sang dạy hát trên VOV. Thế Vũ khá sáng sủa, có lúc được liệt vào cùng thứ hạng với Thanh Lam, Mỹ Linh … nhưng lúc về Nhà hát Ca múa nhạc Việt Nam của Tiến Định lại không phát huy mấy. Anh này giờ đã chuyển sang kinh doan … Rõ ràng đây là thời kỳ tranh tối tranh sáng trong mảng ca khúc ở Việt Nam mà trong đó phần nhạc kinh điển bị lép vế, các nam ca sỹ bị xuống hạng.

12. Chắc sẽ có một dịp anh sẽ kể cho em nghe về các ca sỹ của phong trào “Khắp nơi ca hát”. Qua nói chuyện với anh thì em biết rằng Tuyết Minh, Chu Thanh Hương, hay Phương Nhung (thời kỳ đầu) là những người như vậy. Còn thời của em thì em biết đến Quỳnh Liên, Tuyết Tuyết, Minh Châu, Quỳnh Hoa (hơi đuối hơn) … Rõ ràng nghe họ hát thì không thể phân biệt được chuyên hay không chuyên, càng không thể gọi họ là dân nghiệp dư. Có lẽ ở đây chuyên hay không chuyên chỉ là nói đến họ có qua trường lớp chính quy hay không mà thôi. Trong nghệ thuật thì trường lớp không phải là yếu tố quyết định tất cả. Còn nói dến các nam ca sỹ không chuyên thì em biết Đức Diên qua Một thoáng Tây Hồ, Mỗi bước ta đi thêm yêu Tổ quốc. Anh này năm kia còn xuất hiện để bình luận về các Sao Mai dòng thính phòng và dân gian. Nhưng theo em “hiện tượng” trong phong trào “Khắp nơi ca hát” phải là Tốp nam nhà máy toa xe Hải Phòng. Hình như ông Huy Túc là từ đây mà ra? Có lẽ phải gọi họ là một đoàn ca nhạc chuyên nghiệp mới đúng. Cứ nghe họ hát Đêm Trường Sơn nhớ bác, Đường tàu mùa xuân, Ta ra trận hôm nay … thì có lẽ chỉ có AC&M hiện nay nếu chưa tan rã mới có thể cover lại được J

Thôi nói tới AC&M là phải nói đến thế hệ trẻ sau này rất lâu rồi. Em sẽ trở lại và hầu chuyện anh về “hình sin” trong đồ thị âm nhạc Việt Nam vào lần sau, trong đó có sự hồi sinh của dòng nhạc kinh điển sau đỉnh cao và bão hòa của nhạc trẻ Việt Nam. Còn bây giờ chúng ta nghe AC&M hát Anh vẫn hành quân của Huy Du. Băng tư liệu này lấy từ Live show Con đường Âm nhạc số 18- Chân dung nhạc sỹ Huy Du.

---

* Trần Thanh Tú: Bạn diễn trong những năm 80's của các ca sỹ Ái Vân, Lệ Quyên, Họa Mi, Thanh Lam... Là học trò của Quý Dương, Diệu Thúy. Anh Tú từng là giám khảo chấm Hồng Nhung trong một cuộc thi năm 1987