Showing posts with label nhạccáchmạng. Show all posts
Showing posts with label nhạccáchmạng. Show all posts

Monday, 18 May 2009

Bác Hồ một tình yêu bao la (May 19, 2009)

1. Hai trích đoạn đặc biệt: Phần 1- NSND Thanh Hoa hát đơn ca cùng Dàn nhạc dây Đài TNVN năm 1980; Phần 2- NSND Thanh Hoa hát cùng Hợp xướng và Dàn bán cổ điển Đài TNVN năm 1982; Phối khí và chỉ huy: Nhạc sỹ Lê Đình Lực.

2. NSND Thanh Hoa hát Bác Hồ một tình yêu bao la với nhạc điện tử

3. NSND Thanh Hoa hát Bác Hồ một tình yêu bao la trong Con đường Âm nhạc: Thuận Yến & Khát Vọng (2007)

4. NSND Thanh Hoa hát Vầng trăng Ba Đình trong Con đường Âm nhạc: Thuận Yến & Khát vọng (2007)

Saturday, 9 May 2009

Thời thanh niên sôi nổi (May 09, 2009)

песня о тревожной молодости - Thời thanh niên sôi nổi - dành cho 9-5

Wednesday, 29 April 2009

Tổ quốc yêu thương (April 30, 2009)

Sáng tác: Hồ Bắc

Ca sỹ: NSƯT Ái Vân

Pianist: Hoàng My

Friday, 17 April 2009

Làng lúa làng hoa (April 17, 2009)

Tư liệu minh họa: Mùa xuân Làng lúa Làng hoa với tiếng hát của NSND Thanh Hoa trên sóng phát thanh Đài Tiếng nói Việt Nam tháng 1-1981.

Thành phố "đói" hoa

08:50' 16/04/2009 (GMT+7)

img- Một thành phố "Làng lúa làng hoa" qua giọng hát ngọt ngào của Thanh Hoa làm người nghe chợt nhớ về Hà Nội thuở nào. "Bên lúa, anh bên lúa, cánh đồng ven đê//Hồ Tây xanh mênh mông, trong tươi thắm nắng chiều//Làng em làng hoa, hoa thơm ngát bốn mùa//Hồ Tây đôi bên, trong tình yêu hoa lúa rộn ràng". Thế mà cư dân thành phố ấy từng ăn bo bo, nay tuy thừa gạo, nhưng lại "đói" hoa, mặt nước Hồ Tây không còn xanh nữa, đồng lúa cũng biến đi. Mới hiểu tại sao, vài cành hoa anh đào Nhật Bản mà thu hút mấy trăm ngàn người tới xem.

img
Hoa anh đào - Ảnh: Hiệu Minh

Tôi nhớ thời Hà Nội đi sơ tán, rất nhớ chi tiết trong một bài báo. Hồi đó không có điện thoại, internet, thư từ trong nước đi cả tháng mới đến. Bố mẹ đi khỏi thành phố, sợ con trai đi bộ đội về thăm bất chợt, để mẩu giấy trên cửa: “Bố mẹ và em sơ tán về Hưng Yên. Nếu con về, tìm chìa khóa dưới thảm chùi chân”. Ba tháng sau, gia đình quay về, trong nhà không mất mát thứ gì.

Hòa bình, nhà cao tầng lắp ghép được xây cao, soi bóng diễm lệ bên hồ Thành Công hay Giảng Võ. Những ban công xinh xắn để cư dân nhìn hoàng hôn buông xuống hay ngắm trăng lên.

Nhưng rồi sự bất an do những vụ ăn cắp ngày đêm gây ra. Khi cái áo, khi cái quần, rồi có kẻ ngang nhiên trèo qua ban công vào lấy hết đồ đạc quí. Những căn hộ sang trọng ấy phải thêm “chuồng cọp”. Sau này dân ta sáng kiến hơn, biến thành những gác xép, phòng nhô ra, thò thụt làm cho khu nhà lắp ghép nhếch nhác và bẩn thỉu.

Ngày nay, những ngôi nhà trên khu phố mới, càng giầu thì càng kín cổng cao tường. Kẽm gai mấy vòng tua tủa, mác nhọn hoắt trên các bờ tường, cắm mảnh chai sắc như dao cũng không ngoài mục đích ngăn trộm đột nhập mà trong ngôi nhà đó có thể là một thế giới riêng đẹp như mơ.

Tường cao che chắn những villa cho thấy quốc gia đang đi lên về kinh tế nhưng văn hóa có thể đã thụt lùi. Xã hội văn minh được đánh giá qua hàng rào sơ sài quanh nhà ở mang tính trang trí nhiều hơn là chống trộm.

img
Hồ Tidal Basin (Washington DC) vào mùa hoa anh đào - Ảnh: Hiệu Minh

Mấy hôm nay, “chuồng cọp” lại xuất hiện cả trong những sự kiện văn hóa. Tâm điểm lễ hội Nhật Bản ngày 12-4-2009 là 6 cây anh đào thật từ xứ Phù Tang cho dân ta chiêm ngưỡng. Người ta phải rào hoa, huy động tới 500 người bảo vệ. Nhìn sắc phục cảnh sát dưới bóng hoa anh đào thấy lo lắng thay cho một nền văn hóa đang xuống cấp.

Năm ngoái đã có chuyện cướp ở hội hoa. Năm nay rút kinh nghiệm, rào “mềm” và cảnh sát dầy đặc. Rất may, hoa héo, lá tàn và sắc phục nhà chức trách nên không thấy ai dám thò tay. Một người khiếm thị lấy tay thử, nhưng tội cho anh lại sờ vào hoa giả và bị lôi đi.

Thành phố no ăn nhưng lại “đói hoa” dù tiềm năng ấy có thừa. So sánh anh đào Nhật Bản và đào Nhật Tân, mỗi loài có một vẻ đẹp riêng và khó mà nói rằng hoa xứ người rực rỡ hơn ta. Tại sao hoa của họ lôi cuốn được hàng triệu người.

Ở nhiều nước, vườn hoa, phố hoa, công viên hoa hay kể cả hồ hoa trong thành phố được thiết kế tổng thể trong một môi trường kiến trúc chan hòa với thiên nhiên. Thêm vào đó là pháp luật chặt chẽ và văn hóa lâu đời được dung dưỡng, phát triển cùng với thế giới hiện đại. Mỗi cây mang đi trồng hay cánh hoa gửi đi triển lãm nước ngoài được nền văn hóa ngoại giao thâm trầm của quốc gia đó gửi gắm, được họ biến thành một thứ hoa đạo.

Hà Nội rất đẹp với những hàng cây cổ thụ xanh bốn mùa. Lò Đúc có hàng lim cao chót vót, cò về làm tổ, hàng Bông, hàng Nhuộm hoa bằng lăng tím, rồi dãy phượng vĩ đường Thanh Niên đỏ thắm mùa hè.

img
Đào núi Sapa - Ảnh: Photo.com.vn

Vườn đào Nhật Tân, nếu được giữ nguyên, không bị biến thành chung cư cao tầng thì vẻ đẹp không kém bất kỳ vườn hoa nào trên thế giới. Nếu xung quanh Hồ Tây được trồng đào, phượng vĩ, bằng lăng hay liễu rủ trên mặt nước trong xanh với không gian kiến trúc hài hòa ven bờ thì du khách cũng đến đông hàng triệu, không kém do với mùa anh đào bên Thượng Hải hay hồ Tidal Basin (Washington DC).

Hàng cây hoa lá ấy được trồng trong một thành phố có tổ chức, đường sạch đẹp thì người dân sẽ sống có văn hóa. Có lẽ đến lượt chúng ta mang hoa đi triển lãm. Biết đâu cũng có người “thèm” và vặt hoa Nhật Tân như dân ta bẻ đào Phú Sỹ năm ngoái.

Còn tiếp tục những dự án biến đường phố làm trung tâm thương mại, chiếm đất công viên xây khách sạn dưới danh nghĩa “cam kết quốc tế”, xây sân chơi thành chợ, hay cuộc săn lùng những "tấc đất vàng" cuối cùng đang âm thầm tiến hành thì không còn chỗ nào cho vườn hoa, đường hoa hay hồ hoa. Tệ nạn đói “hoa” vẫn còn tồn tại.

Ai đã từng sang Seoul, Thượng Hải, hay Tokyo về mùa hoa anh đào nở thì sẽ không ra sân Quần Ngựa để thưởng ngoạn hoa và nắng. Dù hoa đẹp đến đâu nhưng không ở trong một ngữ cảnh với thiên nhiên giao hòa thì cũng chỉ như cành đào Sapa mang về căn hộ cao cấp Ciputra, để rồi hoa trở nên đơn độc và lãng xoẹt, như thiếu nữ xinh đẹp múa trước đám dân làng đang đói hoa mắt.

Ngày xưa “đói nghèo sinh nghịch tặc” dễ hiểu. Thời nay, nhiều kẻ giầu nhưng có quyền vẫn tiếp tục ăn cắp do tham nhũng vì “đói” luật pháp. Trộm cây, vặt hoa liên quan đến thứ đói khác, đó là “đói văn hóa”, một căn bệnh không kịp chữa trị, xã tắc sẽ lâm nguy. Tệ nạn này từ nhiều hệ lụy, do nền giáo dục trong gia đình, nhà trường, ngoài xã hội kể cả luật pháp không được thượng tôn. Tham nhũng tràn lan không bị trừng phạt nghiêm khắc cũng là nguyên nhân khác. Người ta ăn cắp nhiều thế thì mình bắt chước với bông hoa có làm sao.

Nhìn xa trông rộng để phát triển đất nước, dân sẽ không đói hoa, cảnh kín cổng cao tường và "chuồng cọp" cũng mất đi. Ngôi nhà rất đẹp nhưng lại rào như trại giam thì khó nuôi dưỡng những tâm hồn lớn bên trong. Cảnh sát nên đi tuần tra bảo vệ cho khu phố không cần khóa cửa khi đi vắng thay vì ngồi gốc cây để bắt kẻ vặt hoa. Hôm nào đó, ta có thể yên tâm để lại lời nhắn bạn như 40 năm trước “Chìa khóa để dưới thảm". Lời hát xưa "tình yêu hoa lúa rộn ràng" thuở nào có thể tìm lại được.

  • Hiệu Minh

Saturday, 28 March 2009

Về những giọng ca nam của Việt Nam( March 29, 2009)

Clip minh họa: AC&M hát Anh vẫn hành quân của Huy Du. Băng tư liệu Con đường Âm nhạc số 18- Chân dung nhạc sỹ Huy Du.

Trao đổi với anh Trần Thanh Tú* về giọng hát của các nam ca sỹ Việt Nam:

1. Thôi thì mấy ông Trần Thụ, Mai Khanh, Quốc Hương, Trần Khánh,Trung Kiên, Quý Dương, Kiều Hưng, Trần Hiếu thì anh em mình sẽ chuyển sang bình luận về cảm thụ sau vì mức độ phổ cập trong danh tiếng của họ cũng khá cao... Nhưng chưa thấy anh nói về Tiến Thành, một người cùng thời với anh. Em gọi Tiến Thành là “Nghệ sỹ đặc biệt” trong phân loại tư liệu của các ca sỹ trong bộ sưu tập của em. Em có một bài khá dài trên blog về Tiến Thành, nhưng chủ yếu là dựa vào trí nhớ chắp ghép của em… Nhóm Tiến Thành, Huy Hùng, Đăng Khoa, Hữu Nội rất hay hát cùng nhau. Dù cho phần lớn các bài đồng ca của Đài không có giới thiệu từng ca sỹ, nhưng em có thể tách giọng từng người ra một. Giọng ông Đăng Khoa hơi xù xì, thô ráp nhưng có sức hút kỳ lạ. Huy Hùng có lúc hơi nhạt, nhưng em thấy giọng hát rất trẻ và tình tứ. Cũng là người Hải Phòng anh nhỉ. Ông Hữu Nội thì nhìn hình thức đúng là một ông nghiện, nhưng giọng nam cao của ông ý ở Việt Nam hiếm thật. Trong dàn hợp xướng giọng ông ý át tất cả các giọng khác ... Đặc trưng vibrato của Hữu Nội theo em là “phép rung” chứ không phải “tật rung” như Lê Dung đời đầu anh nhỉ J. Doãn Tần thì anh có nói qua và nhiều người biết. Nhưng cùng kiểu giọng như Doãn Tần em nhớ còn có Hoàng Chè. Lần làm chương trình 50 Điện Biên Phủ em có gặp chú ấy, nhưng chả có dịp nói chuyện. Hoàng Chè có bài "... hỡi đồi cao A1 ... đến Điện Biên hôm nay lòng như say điệu hát. Có mùa hoa ban ở trên nẻo đường quê xa. Có tình yêu muôn thuở là Điện Biên quê ta" hay ghê. Mà em nhớ đọc ở đâu đó có nói Hoàng Chè là thanh niên Hà Nội thứ thiệt.

2. Có những giọng nam hiền lành như anh đã nói là Ngọc Tú. Ngoài bài Mời anh đến thăm quê tôi được dàn dựng, hòa âm rất hay em còn rất thích bài Cánh chim tuổi trẻ (Tạm biệt phố phường Hà Nội, tạm biệt những mái trường … ta đi tới những miền đất mới, ta mang sức trẻ của mùa xuân …). Ngày nay có Phạm Văn Giáp có giọng gần giống Ngọc Tú. Bên cạnh Ngọc Tú em thấy có Trung Bộ của Văn công QK2 cũng có giọng nam trung hiền lành như trong "Lim dim câu hát sông cầu". Ông Trung Bộ còn hát rất hay trong tốp ca của bài Tiếng đàn bên bờ sông biên giới của Phạm Tuyên (mà những năm 80 VTV sử dụng làm nhạc hiệu chương trình ca nhạc). Có giọng nam cũng hiền lành và hơi "mềm" là Minh Quang của TCCT. Minh Quang này em rất thích khi ông ấy hát Lá đỏ, Ta ra trận hôm nay. Minh Quang song ca với Lê Dung bài Củ Chi yêu thương rất hay và nhiều bài khác nữa. Sau này có Minh Quang trẻ trẻ nữa. Nhưng Minh Quang này giọng "mô phạm" giống kiểu Trần Tựa, Trọng Thủy là những chất giọng mà em không được thích cho lắm :) Hiền lành và hơi cứng nữa thì phải kể đến chú Mạnh Hưng nổi tiếng đẹp trai của TCCT. Trong các bài hát của chú này em chỉ lưu có 2 bài là Cửa biển chiều hôm của Huy Du và Thành phố tôi yêu của Phạm Đình Sáu viết về TPHCM (Đẹp mãi mùa xuân thành phố của tôi, rộn vang tiếng ca ngợi tên Bác Hồ, sức sống sinh sôi nhịp vui hối hả ...) Nhưng em thấy Ái Vân hát bài Thành phố tôi yêu tình tứ và thiết tha hơn nhiều. Ái Vân thu bài này cùng thời với 2 bài của Hoàng Dương là Matxcova một tình yêu và Mai em đi rồi.

3. Rồi còn Phan Huấn nữa. Phan Huấn cũng hiền hiền. Ông ấy có lẽ là người đầu tiên hát Hành khúc ngày và đêm của Phan Huỳnh Điểu. Trong bản nhạc mà Phan Huấn hát không có đoạn “Rất dài và rất xa …” mà thay vào đó là đoạn vocal “hò ơ ơ…”. Phan Huấn cũng là người đầu tiên hát Đàn Tơ-rưng (Nguyễn Viêm & Huy Cận: Anh bắc qua con suối, chiếc cầu phao âm thanh …) với đoạn giả thanh ở câu cuối rất điệu nghệ và đặc sắc. Một trong những tư liệu quý của em lại chính là bài Tình ta biển bạc đồng xanh của Hoàng Sông Hương (tư liệu viết là Rừng xanh) mà ông Phan Huấn song ca cùng Tuyết Thanh. Bài hát này vốn dĩ rất hay, nhưng không hiểu sao VOV không cho lưu hành, tới mức gần đây khi Việt Hoàn, Anh Thơ và một số cặp song ca trẻ khác cover lại thì nhiều người mới biết là có bài hát này. Có người nói, bài này cũng giống như bài Tâm tình người thủy thủ của Đức Minh có hơi hướng nhạc vàng, tiểu tư sản thế nào đó nên ngày xưa bị cấm (!)

4. Bên cạnh mấy giọng nam hiền lành đó thì em còn rất thích những giọng nam khỏe khoắn, rắn chắc kiểu cổ điển, như là Quang Phác trong Hò biển mà anh đã kể sơ qua. Từa tựa như Quang Phác em thấy có Huy Giảng trong Bài ca bên cánh võng, Chiếc ba lô và bài ca tình nguyện, Hãy cho tôi lên đường … Bật hẳn lên trong nhóm này em nghĩ là Quang Hưng. Từ “hào sảng” và “lạc quan” có lẽ là hai từ rất trúng để nói về giọng hát Quang Hưng. Nó khác với “hào sảng” nhưng lại “bi tráng”, “kịch tính” và có khi “u uất” trong giọng hát của Trần Khánh.

5. Tổng hòa các vẻ đẹp của nhiều giọng nam phải kể đến Dương Minh Đức. Theo em đây là một trường hợp đặc biệt. Giọng Dương Minh Đức vừa kinh viện lại vừa trẻ trung. Rất nam tính và lại rất mềm mai, uyển chuyển. Về quãng giọng chắc sánh ngang với Trung Kiên nhưng Dương Minh Đức lại không hát gắt như Trung Kiên. Giọng Dương Minh Đức rất bay nhưng lại không bị mảnh và mái như Doãn Tần, Hoàng Chè, không chói như Hữu Nội. Dương Minh Đức hoàn hảo trong Như sóng về trùng dương của Hoàng Dương hay Nhựa bạch dương (nhạc Liên Xô). Những bài hát gắn chặt với tên tuổi Dương Minh Đức còn phải kể đến Rừng chiều của Vũ Thanh, Tôi là người thợ của Phan Thanh Nam, Hát về Tổ quốc tôi của Hữu Xuân. Bài Sa Pa thành phố trong sương hay nhất thì phải kể đến bản thu giọng hát của Ngọc Khuê (tác giả của Mùa xuân làng lúa làng hoa) với dàn nhạc dây của Đài VOV. Tuy nhiên, nhiều người vẫn thích bản của Dương Minh Đức hơn với lập luận rằng Dương Minh Đức làm toát lên được cái huyền ảo, cái mênh mang của một thành phố trong sương. Bài hát này nằm trong số các ca khúc thời chiến tranh biên giới với Trung Quốc, nhưng không hề có không khí chiến tranh. Có những bài hát gắn liền với tên tuổi của một ca sỹ. Và do đó bất kỳ ca sỹ nào hát sau đó đều được coi là liều lĩnh và khó thành công. Chẳng hạn như Quỳnh Liên và Ngọc Minh không thể cạnh tranh với Thanh Hoa trong Mùa xuân làng lúa làng hoa; Trung Anh lại càng không bao giờ làm được việc đó. Thế nhưng điều này không xảy ra với Dương Minh Đức. Bác Hồ một tình yêu bao la do Dương Minh Đức tồn tại rất chững chạc bên cạnh phiên bản đỉnh cao của Thanh Hoa. Chiều trên bến cảng của Dương Minh Đức cũng không hề bị lu mờ trước tên tuổi của Ngọc Tân… Tuy nhiên, giống như đồng nghiệp nữ của mình là Kim Phúc, giọng Dương Minh Đức ngày nay không còn được như xưa. Thậm chí nhiều người không nhận ra được Dương Minh Đức ngày xưa nếu chỉ quen với giọng hát hiện nay của ông phó hiệu trưởng nhạc viện Quân đội này.

6. Giọng nam trầm của Việt Nam hiếm anh nhỉ? Nếu liệt kê ra thì em chỉ biết có Trần Hiếu và Quang Huy. Trần Hiếu thu ở Đài VOV không nhiều đâu. Em chỉ sưu tập được chưa đến 10 bài, trong đó em thích nhất là “Những viên đạn trao từ đôi mắt” (hay Những đôi mắt mang hình viên đạn). Trần Hiếu hát Hồ Chí Minh đẹp nhất tên Người với dàn nhạc dân tộc pha với dàn nhạc dây rất hay. Đúng là em có nhiều bản, trong đó có 5 bản đỉnh, một của Kiều Hưng, một của Trung Kiên, một của Bích Liên, một của Tuyết Thanh và một của Trần Hiếu thì mỗi bản đều có một cái hay riêng. Ông Trần Hiếu còn thu Hành khúc ngày và đêm, trong đó có một đoạn hát nói rất hay. Còn Quang Huy thì em cực thích bài Đường Trường Sơn xe anh qua. Phải nói bài này hay vì một lý do rất quan trọng là phần phối khí quá hay, tiếng contrebasse sử dụng rất hiệu quả. Quý Dương thu bài này trước Quang Huy, phần phối khí bằng dàn nhạc dây cũng rất hay nhưng có vẻ bản của Quý Dương ít người biết đến hơn. Quang Huy còn hát nhiều bài nổi tiếng khác như Bên lăng Bác Hồ, Lướt sóng ra khơi. Nhưng quả thật em thấy giọng bass của Quang Huy già quá. Nhiều lúc em thấy nó hơi tối. Mà đồng chí Quang Huy này có vẻ cũng là một trong những nam nhân của làng ca nhạc thời đó. Em thấy rất hay song ca cùng Ái Vân.

7. Công nhận mấy ông “Quang” của mảng ca khúc đều “sáng” thật. Ở trên em nói đến Quang Phác, Quang Hưng, rồi Quang Huy. Còn phải kể đến Quang Mạo nữa chứ. Hồi Đoàn Ca nhạc nhẹ Trung ương của Trần Bình làm các Gala và Nhạc hội những năm đầu 90, em nhớ có bài báo giật tít là trong đêm Nhạc hội vừa qua “cả 3 Quang đều tỏa sáng”. Một Quang trong đó là Quang Mạo. Hình như Quang Mạo là người nhà của Ngọc Lan nhạc viện thì phải. Ngày xưa em đọc báo Hà Nội mới thấy nói thế. Quang Mạo dẫn dẵt cho Ngọc Lan vào Nhà hát nhạc vũ kịch hay sao đó. Về Ngọc Lan chắc em sẽ nói tới trong một dịp khác vì hôm nay chúng ta nói về các nam ca sỹ. Nhưng dù sao em cũng nói luôn là mấy cô giáo thanh nhạc “nổi tiếng” hiện nay như Ngọc Lan, Hà Thủy… đều không có tác phẩm để đời trong VOV. Họ hát mấy bài trong VOV đuối lắm…

8. Quang thứ 2 mà bài báo nói đến là Quang Huy thì em đã nói rồi. Còn Quang thứ 3 chính là Quang Thọ. Nói đến Quang Thọ thì em lại phải trở lại với đặc điểm giống Trần Hiếu là Quang Thọ cũng rất có ít bài thu âm tại VOV. Hình như những năm 70, 80, Quang Thọ chả có tên tuổi gì cả, hoặc là ông ấy còn ở văn nghệ quần chúng, còn ở địa phương. Em tuyệt nhiên không tìm được bản thu âm nào của Quang Thọ lúc trẻ. Đến Đức Long, cũng là người Quảng Ninh, mà em còn tìm được bản thu năm 1979, khi đó tên là Đỗ Đắc Long (không biết các kỹ thuật viên có ghi nhầm tên không, nhưng giọng thì đúng là của Đức Long). Nhưng với Quang Thọ em chỉ tìm được các bản thu sau này. Và em cũng chỉ lưu hai bản là Vang mãi bản tình ca của Trọng Bằng và Ta tự hào đi lên ôi Việt Nam là hai bản mà em rất “chịu” Quang Thọ. Còn thực ra em không khoái giọng Quang Thọ lắm đâu vì em thấy chú ấy cứ ngậm miệng lại, tiếng hát nó trở nên không khoáng đạt.

9. Cũng là nghệ sỹ nhân dân nhưng rất ít bản thu trong hai thập kỷ 70 và 80 tại Đài là đồng hương của em, và cũng là đồng hương của bà Thương Huyền, đó là Trung Đức. Trong “thời xa vắng” của nhạc VOV, em tìm được mỗi một bản của Trung Đức là Hò biển. Giọng vang, sâu và bay lắm, chứ không bị gân guốc như gần đây. Nhưng bù lại sự thiếu hụt thuở xưa, Trung Đức thu âm khá nhiều trong những năm cuối 80 và đầu 90. Nhưng em lại xếp những bản thu đó vào nhóm “Nhạc trẻ thập niên 80-90” chứ không phải nhóm “Kinh điển Việt Nam” trong tổ chức bộ sưu tập của em. Phải công nhận loạt bài thời đó của Trung Đức thực sự khiến chú ấy là sao của bầu trời ca nhạc Việt Nam khi đó, nhất là trên truyền hình, cùng với Thanh Hoa, Thu Hiền là những người có tần số xuất hiện trên truyền hình vào hàng số một. Những tác phẩm để đời của Trung Đức phải là Thì thầm với dòng sông, Đi tìm câu hát lý thương nhau, Hoa bằng lăng, Biển hát chiều nay… Nhưng em nghe nói, cũng như Mạnh Hà, thậm chí cả Lê Dung, Trung Đức rất khổ sở về nhịp. Như thế là sao nhỉ? Như thế thì có lẽ họ nên hát với piano anh nhỉ?

10. Thời kỳ Trung Đức oanh tạc ở miền Bắc và trên truyền hình thì em nhớ là ở miền Nam có Quang Lý, Thế Hiển, Lê Hành rất sáng. Lê Hành tất nhiên có Con kênh ta đào được em xếp vào nhạc kinh điển. Nhưng chủ yếu, cũng như Trung Đức, em xếp các bài hát của mấy vị này vào phần nhạc trẻ. Sau này thì thấy rằng, nói một cách thật chính xác thì họ là thế hệ chuyển tiếp, là cái gạch nối giữa kinh điển và nhạc trẻ. Thời kỳ của họ đánh dấu giai đoạn cuối cùng trong tính “nhất nguyên” trong đời sống âm nhạc Việt Nam trước khi chúng ta chuyển sang thời kỳ “tam giáo đồng nguyên” trong đó nhạc đỏ, vàng, xanh cùng tồn tại, cùng phát triển mà em sẽ bàn với anh trong dịp khác… Quang Lý sau này em không thích lắm, giọng giống Ngọc Tân lúc về già, tức là mũi bị sao đó, nhưng không sáng bằng Ngọc Tân. Tuy nhiên Quang Lý hát Thuyền và Biển và đoạt giải 3 trong cuộc thi đơn ca chuyên nghiệp toàn quốc năm 88 thì thật là không ai bằng. Thế Hiển năm đó hát Đất nước, Chuyện ngày xưa chuyện ngày nay, Cây đàn ghita của Lorica cũng trở thành những bài đóng đinh trên sóng VOV cho tới nay. Vì Lê Hành hát một bài hit thời kỳ đó là Một rừng cây một đời người mà em xếp chú ấy vào nhóm nhạc trẻ 80-90!

11. Thật lạ là sau lớp Trung Đức, Quang Lý thì chúng ta bị gián đoạn một thời gian, không có gương mặt nào sáng bật lên. Nói đúng ra thì lớp sau phải kém lớp Trung Đức, Quang Lý 10, 15 tuổi. Hồi đó thì nhạc trẻ miền Nam và Hải Đăng nổi quá rồi với Ngọc Sơn (Chiếc vòng cầu hôn), Thanh Nam (Câu chuyện nhỏ của tôi), Anh Duy (Thuyền và biển), Đỗ Hữu Xuân (Trở về dòng sông tuổi thơ)... Hay dòng nhạc Phú Quang, Dương Thụ, Trần Tiến nổi lên làm nổi danh Thanh Long bass, hay Nguyễn Hoàng với Tùy hứng lý qua cầu. Nhưng đó là nhạc trẻ và toàn là ở phương Nam. Còn nhạc đỏ thì cũng chính các nam ca sỹ ở miền Nam mới chiếm lĩnh thị trường. Đó chính là phong trào các ca sỹ miền Nam hát nhạc đỏ với đầy đủ những Lệ Thu (Trường Sơn Đông, Trường Sơn Tây), còn nam ca sỹ thì có Thế Sơn (cover lại Lá đỏ, Ngọn đèn đứng gác) hay Quang Bình (Trang Thanh Lan), thậm chí cả Nguyễn Hưng … Nhưng đó cũng là kiểu hát nhạc đỏ mà em mãi không làm quen và chấp nhận được. Điều em muốn nói ở đây là lúc này ở miền bắc các nam ca sỹ trẻ thật sự là thiếu. Minh Thắng có thấp thoáng xuất hiện ở Đoàn ca nhạc nhẹ trung ương với mấy bài, như Thuyền và biển (Hữu Xuân) hay Điều giản dị, Mùa xuân tương lai nhưng sau đó biến mất hoàn toàn. Quang Vinh thì không hẳn là ca sỹ. Bên Nhà hát Tuổi trẻ thì Hồng Kỳ, Thanh Tùng bắt đầu lo chạy theo nhạc trẻ của thị trường. Phải đến 93, 94 Tấn Minh mới xuất hiện nhưng chủ yếu là kiểu ca sỹ học trò và không xác định được rõ thế mạnh. Cũng trong thời kỳ xuất hiện Tấn Minh thì khán thính giả rất có cảm tình với các sinh viên của Trường Văn hóa nghệ thuật quân đội với các gương mặt như Ngọc Lê, Hồng Hải, Minh Hoa, Hương Mơ. Nam thì có Thế Vũ, Hồ Tùng. Hồ Tùng sau này vì mắc bạo bệnh nên sức khỏe suy sụp, có thời em thấy chuyển sang dạy hát trên VOV. Thế Vũ khá sáng sủa, có lúc được liệt vào cùng thứ hạng với Thanh Lam, Mỹ Linh … nhưng lúc về Nhà hát Ca múa nhạc Việt Nam của Tiến Định lại không phát huy mấy. Anh này giờ đã chuyển sang kinh doan … Rõ ràng đây là thời kỳ tranh tối tranh sáng trong mảng ca khúc ở Việt Nam mà trong đó phần nhạc kinh điển bị lép vế, các nam ca sỹ bị xuống hạng.

12. Chắc sẽ có một dịp anh sẽ kể cho em nghe về các ca sỹ của phong trào “Khắp nơi ca hát”. Qua nói chuyện với anh thì em biết rằng Tuyết Minh, Chu Thanh Hương, hay Phương Nhung (thời kỳ đầu) là những người như vậy. Còn thời của em thì em biết đến Quỳnh Liên, Tuyết Tuyết, Minh Châu, Quỳnh Hoa (hơi đuối hơn) … Rõ ràng nghe họ hát thì không thể phân biệt được chuyên hay không chuyên, càng không thể gọi họ là dân nghiệp dư. Có lẽ ở đây chuyên hay không chuyên chỉ là nói đến họ có qua trường lớp chính quy hay không mà thôi. Trong nghệ thuật thì trường lớp không phải là yếu tố quyết định tất cả. Còn nói dến các nam ca sỹ không chuyên thì em biết Đức Diên qua Một thoáng Tây Hồ, Mỗi bước ta đi thêm yêu Tổ quốc. Anh này năm kia còn xuất hiện để bình luận về các Sao Mai dòng thính phòng và dân gian. Nhưng theo em “hiện tượng” trong phong trào “Khắp nơi ca hát” phải là Tốp nam nhà máy toa xe Hải Phòng. Hình như ông Huy Túc là từ đây mà ra? Có lẽ phải gọi họ là một đoàn ca nhạc chuyên nghiệp mới đúng. Cứ nghe họ hát Đêm Trường Sơn nhớ bác, Đường tàu mùa xuân, Ta ra trận hôm nay … thì có lẽ chỉ có AC&M hiện nay nếu chưa tan rã mới có thể cover lại được J

Thôi nói tới AC&M là phải nói đến thế hệ trẻ sau này rất lâu rồi. Em sẽ trở lại và hầu chuyện anh về “hình sin” trong đồ thị âm nhạc Việt Nam vào lần sau, trong đó có sự hồi sinh của dòng nhạc kinh điển sau đỉnh cao và bão hòa của nhạc trẻ Việt Nam. Còn bây giờ chúng ta nghe AC&M hát Anh vẫn hành quân của Huy Du. Băng tư liệu này lấy từ Live show Con đường Âm nhạc số 18- Chân dung nhạc sỹ Huy Du.

---

* Trần Thanh Tú: Bạn diễn trong những năm 80's của các ca sỹ Ái Vân, Lệ Quyên, Họa Mi, Thanh Lam... Là học trò của Quý Dương, Diệu Thúy. Anh Tú từng là giám khảo chấm Hồng Nhung trong một cuộc thi năm 1987

Thursday, 12 March 2009

Đến cao nguyên người ở đừng về (March 13, 2009)



1. Tháng Ba Tây Nguyên. Sáng tác nhạc của Văn Thắng. Lời thơ của Thân Như Thơ. Nghệ sỹ Nhân dân Tường Vy song ca cùng Nghệ sỹ Trọng Hinh.

2. Tình ca Tây Nguyên- Sáng tác: Hoàng Vân. Nghệ sỹ ưu tú Tiến Thành hát cùng tốp nữ Đoàn ca nhạc Đài Tiếng nói Việt Nam năm 1978.

3. Nghe câu Quan họ trên Cao nguyên. Sáng tác: Vũ Thiết. Nghệ sỹ Quỳnh Liên (Cán bộ Đại học Sư phạm Hà Nội) hát cùng Dàn nhạc Đài Tiếng nói Việt Nam năm 1983.

4. Ngọn lửa Cao nguyên. Sáng tác: Trần Tiến. Ca sỹ Bách Thảo (Đoàn ca múa Hải Đăng- Phú Khánh) hát cùng giọng bè của ca sỹ Thanh Nam (Hải Đăng).

Saturday, 14 February 2009

Chiến tranh biên giới qua ca khúc Việt Nam (February 15, 2009)



Khi nổ ra các cuộc biểu tình phản đối Trung Quốc cách đây hơn 1 năm, nhiều bạn đề nghị tôi giới thiệu lại các bài hát của thời kỳ chiến tranh biên giới Việt- Trung mà các bạn ấy biết là tôi giữ lại gần như trọn vẹn trong bộ sưu tập cá nhân. Những ngày này, khi gần tới ngày 17 tháng 2, nhiều bạn lại hỏi tôi về « Tiếng súng đã vang trên bầu trời biên giới », rồi « Bốn mươi thế kỷ cùng ra trận » v.v. Tôi rất cảm kích sự yêu mến mà các bạn, cũng như tôi, dành cho nền âm nhạc cách mạng Việt Nam qua các thời kỳ. Tôi cũng hiểu cả sự tò mò của nhiều bạn nữa, một sự tò mò rất tự nhiên, hợp tình, hợp lý muốn được nghe thử, được tìm hiểu các ca khúc một thời khuấy động cả dân nhưng rồi sau đó lại chỉ còn được biết đến qua tựa đề, qua một số câu hát không trọn lời, qua sự truyền miệng trong dân gian. Có bạn đã tò mò và háo hức được nghe tới mức đã tìm cách thu lén « Tiếng súng đã vang trên bầu trời biên giới » qua YM và sau đó phổ biến một clip âm thanh với chất lượng rất thấp trên rất nhiều diễn đàn mạng...

1. Trong bài Đất nước, Tạ Hữu Yên viết Mẹ Việt Nam « ba lần tiễn con đi, hai lần khóc thầm lặng lẽ ». Rất có thể con số 3 và số 2 ở đây là những con số có tính tượng trưng vì trong suốt chiều dài lịch sử của dân tộc mình, Mẹ Việt Nam đã nhiều hơn ba lần tiễn con đi và cũng nhiều lần khóc thầm lặng lẽ. Nhưng nếu đó là hình ảnh Mẹ Việt Nam của thế kỷ 20 thì lần thứ 3 Mẹ khóc chính là lúc những đứa con của Mẹ phải ra đi để bảo vệ những miền biên ải ở hai đầu đất nước. Nếu hình dung sự phát triển của nền âm nhạc cách mạng Việt Nam như những đợt triều dâng thì đã có tới ba đợt triều cường trong thế kỷ 20. Nếu như đợt thứ nhất là của thế hệ của Điện Biên, của 9 năm, đợt thứ hai ứng với thế hệ của những « giải phóng quân xẻ dọc Trường Sơn » thì đợt thứ 3 chính là thế hệ của các nhạc sỹ, ca sỹ trưởng thành từ cuộc chiến đấu vì lý tưởng « độc lập, tự do » của cả dân tộc.

2. Ngày nay, bạn trẻ yêu nhạc cách mạng nào cũng có thể dễ dàng liệt kê hàng chục, thậm chí hàng trăm ca khúc ra đời trong hai cuộc chiến tranh Việt Nam. Nhưng nếu có điều kiện nghe lại hoặc được cha anh kể chuyện, các bạn cũng có thể kể ra một con số ấn tượng các ca khúc ra đời giữa những ngày nóng bỏng nhất của « cuộc chiến giữa những người anh em Đỏ ». Phải khẳng định ngay từ đầu rằng các ca khúc của thời kỳ chiến tranh biên giới- ca khúc chống bành trướng là một bộ phận không thể tách rời, trong kho tàng âm nhạc Việt Nam. Nếu bỏ đi giai đoạn sáng tác này, dòng chảy của nền ca khúc nói riêng và âm nhạc Việt Nam nói chung không còn liền mạch và trở nên thiếu tự nhiên. Được sáng tác trong một thời gian không dài, khoảng 3-4 năm và tập trung cao độ trong hai năm 1979 và 1980 với con số lên tới vài trăm bài hát, nhưng kho tàng ca khúc thời kỳ này có thể sánh ngang với nền ca khúc cách mạng của ba thập kỷ liền kề trước đó ở mọi phương diện. Đặc biệt, đó còn là những bản tráng ca cũng rực lửa hờn căm, ngập tràn hào khí. Một cách vắn tắt nhất, đây là một tượng đài hùng vĩ của nền ca khúc Việt Nam.

3. Các ca khúc của thời kỳ này đã được viết lên từ những thôi thúc của tinh thần dân tộc dâng cao tột độ, từ tình yêu đất nước cháy bỏng đã trở thành truyền thống của cả dân tộc, và đặc biệt là từ tinh thần chống quân xâm lăng phương Bắc- một tinh thần được hun đúc từ hàng nghìn năm qua và đã trở thành một thứ tình cảm thường trực, một thứ phản xạ của bản năng, một ý chí hiện hữu tự nhiên tựa như dòng máu chạy trong huyết quản của mỗi con dân đất Việt. Một yếu tố quan trọng nữa làm nên tầm vóc của các tác phẩm thanh nhạc thời kỳ này nằm ở chỗ, những năm cuối 70, đầu 80 là thời kỳ đỉnh cao trong kỹ thuật dàn dựng, phối khí, thu thanh của Đoàn ca nhạc và Ban biên tập âm nhạc Đài Tiếng nói Việt Nam- một « pháo đài » của nền âm nhạc cách mạng và tuyên truyền được sinh ra, trưởng thành và rèn luyện trong hai cuộc kháng chiến thần thánh của dân tộc trước đó, cũng như từ sự hỗ trợ của các nền âm nhạc lớn trong « phe » Xã hội chủ nghĩa, trong đó có cả Trung Quốc ( !), để rồi sau đó trở thành cái nôi sản sinh ra các tác phẩm còn mãi với thời gian và các tên tuổi nghệ sỹ đi cùng năm tháng.

4. Nối tiếp truyền thống và mạch cảm xúc của ba thập kỷ trước đó, các ca khúc thời kỳ này tiếp tục là tấm gương phản ánh sinh động nhất của lịch sử. Mỗi bài hát là một chỉ dấu song hành với những diễn biến của lịch sử. Một cách không hề phóng đại, thay vì tìm và đọc lại các xã luận của Hoàng Tùng trên báo Nhân dân, thay vì tìm lại bản gốc của Hiến pháp 1980 hay các tuyên bố báo chí của Bộ Ngoại giao, thay vì đọc sách trắng về quan hệ Việt-Trung, người ta có thể tiếp cận lịch sử bằng cách nghe lại các ca khúc của thời kỳ này.

5. Đó là sự tái hiện bằng âm nhạc các trận bút chiến nảy lửa trong dư luận báo chí và chính giới, như trong các tác phẩm của Nguyễn Đình Tấn và Nguyễn Mạnh Thường với giọng hát hào sảng, bừng bừng khí thế và đầy kịch tính của nghệ sỹ Quang Hưng :

« Giặc xâm lăng nói đất này đất của Trung Hoa bởi chứa trong lòng đất xương cốt ông cha đã chất chồng. Quân xâm lăng bay biết không ? Muốn tìm xương cốt cha ông, sao chỉ ở Hoàng Sa, đảo nhỏ quê ta, sóng dềnh, biển gào. Hãy đến Đông Đa, hay tới Chi Lăng, hay tới Bạch Đằng nơi bao hồn oan vất vưởng... Hãy đến đây, xương chất sẽ càng cao. Dù 50 vạn, hoặc nhiều hơn . Đụng đến Việt Nam thành đồng lũy thép, thế hiên ngang muôn thuở là mộ chôn lũ quân thù... » (Việt Nam muôn thuở mồ chôn quân thù- Nguyễn Mạnh Thường)

hay :

« Quên rồi chăng ? Những ngày cách mạng, những giải phóng quân vì Đảng hy sinh. Quên rồi chăng ? Giai cấp đấu tranh, khinh con hổ giấy giải phóng Đài Loan. Không ! Chúng không quên, chúng đâu có quên mà là bội phản. Quân phản bạn, phản dân. Hôm xưa chống Mỹ viện Triều. Hôm nay thân Mỹ đả Việt. A ha, vua Trụ, vua Việt đang sống lại hát Quốc tế ca. Thôi đi, im ngay đi !...Những người cầm quyền Trung Hoa đừng cuồng say trung cổ mà hãy nhớ lấy Chi Lăng, Bạch Đằng, Đống Đa... (Việt Nam không khuất phục- Nguyễn Đình Tấn)

6. Các ca khúc ấy đã bám chặt dòng chảy của thời sự. Nhiều ca khúc đã xuất hiện gần như ngay lập tức khi chiến tranh bùng nổ. Tiếng hát của dàn đồng ca vang dội hùng tráng trên làn sóng Đài Tiếng nói Việt Nam nhiều lần trong ngày có thể ví như các bản tin « breaking news » của CNN :

Tiếng súng đã vang trên bầu trời biên giới. Gọi toàn dân ta vào cuộc chiến đấu mới. Quân xâm lược bành trướng dã man đã giày xéo mảnh đất tiền phương. Lửa đã cháy và máu đã đổ trên khắp dải biên cương. Đất nước của ngàn chiến công vẫn sục sôi khí thế hào hùng. Những Chi Lăng, Bạch Đằng, Đống Đa đang gọi tiếp thêm những bản hùng ca. Việt Nam, ôi nước Việt yêu thương. Lịch sử đã trao cho Người một sứ mạng thiêng liêng. Mang trên mình còn lắm vết thương, Người vẫn hiên ngang ra chiến trường. Vì một lẽ sống cao đẹp cho mọi người : Độc lập, Tự do ! (Phạm Tuyên)

7. Bên cạnh những bản tin thời sự với những bài xã luận đanh thép được thể hiện qua giọng đọc truyền cảm đặc biệt của các phát thanh viên danh tiếng Việt Khoa, Tuyết Mai, Hoàng Yến, Đài Tiếng nói Việt Nam đồng thời phát đi những ca khúc mang âm hưởng của lời Hịch tướng sĩ thở xưa. Những ca khúc ấy chất chứa lòng uất hận của những người thường dân vô tội, loạn ly trong cảnh chạy giặc. Cùng với cảm xúc ấy là lòng căm thù và quyết tâm thắng giặc của những đoàn quân ra trận :

« Đoàn quân vội đi, đi về biên giới. Cũng từ biên giới về những bầy trẻ nhỏ. Đoàn quân lặng im, nhìn đàn em bé. Từng đôi mắt đen xoe tròn. Từng đôi mắt mang hình viên đạn. Ngàn đôi mắt như ngàn lời ước hẹn. Từng đôi mắt quê hương trao cho đoàn quân. Người chiến sỹ hãy nhớ lấy. Bắn tan quân xâm lược dã man. » (Những viên đạn trao từ đôi mắt- Trần Tiến, giọng hát Trần Hiếu)

Hay như :

« Hành quân lên biên giới. Non sông ta kẻ thù xéo giày, trong tim ta hận thù chất đầy. Bọn Trung Quốc xâm lược ! Phải giữ lấy mỗi tấc đất để xứng với ngàn năm. Phải đánh cho chúng nhớ lấy chớ vào đây.Hào khí chiến đấu bất khuất chống ngoại xâm... » (Lê Mây, tốp nam hát, Tiến Thành lĩnh xướng)

Và bi tráng nhất từ giai điệu cho đến ca từ, phải kể đến Bài ca biên giới anh hùng của Nguyễn Đức Toàn :

« Nén đau thương, những bà mẹ lại tiễn con lên đường đi ra mặt trận, đi bảo vệ đất nước. Ta đánh cho tan bọn Trung Quốc hung nô xâm lược. Mỗi tấc đất, mỗi dòng sông là một trận tuyến bất khuất hiên ngang chặn bàn tay khát máu... Đi đánh cho tan bọn Trung Quốc man rợ. Với khí thế Bạch Đằng Giang hãy xông lên trút ngọn lửa hờn căm... » (Tiếng hát Đăng Khoa, Trung Kiên, Hữu Nội và tốp nam)

8. Bài xã luận từng được coi như lời hịch đăng trên báo Nhân dân với tựa đề « Bốn mươi thế kỷ cùng ra trận » đã được nhạc sỹ Hồng Đăng mô phỏng hết sức sinh động bằng một ca khúc cùng tên. Không thể phủ nhận tính chất tuyên truyền và cổ động của tác phẩm này. Tuy nhiên, trong trường hợp này, chắc chắn sự rung động chân thành của tác giả đã bắt gặp cảm xúc và khí thế của cả dân tộc. Vì thế, ca khúc của Hồng Đăng đã trở thành một điểm nhấn giữa một biển ca khúc cùng thời. Đồng ca Đài Tiếng nói Việt Nam với giọng lĩnh xướng đanh thép nhưng thiết tha của Ngọc Tân và Vân Khánh đã thể hiện trọn vẹn nhất hào khí 40 thế kỷ của cả dân tộc :

« Bốn mươi thế kỷ cùng ra trận. Hát tiếp bài ca chống giặc ngoại xâm. Bốn mươi thế kỷ đều căm giận. Kẻ thù phương Bắc không đội trời chung. Một dải non sông tha thiết yêu thương. Một tiếng nói chung chỉ một con đường. Lịch sử gọi ta xông lên phía trước. Sẽ viết trọn bài ca anh hùng cứu nước. »

Lịch sử bốn ngàn năm của đất nước đã được khơi dậy từ sự đồng thuận của cả dân tộc với ý chí Diên Hồng- ý chí Việt Nam. Ý chí đồng thuận của cả dân tộc đã chuyển hóa thành sức mạnh cho một cuộc chiến tranh nhân dân tổng lực, giống như nhạc sỹ Lưu Hữu Phước đã viết :

« Cả nước hành quân theo Đảng ra chiến trường. Vì nước vì dân ta lên đường đi chiến đấu. Đèo cao đá Chi Lăng, vực sâu nước Bạch Đằng đang chờ quân giặc ở ngàn phương. Mỗi nhà là một pháo đài. Mỗi làng là một chiến khu. Năm mươi triệu dân cùng chung ý chí. Quyết đánh quân bành trướng. Quét hết lũ ngoại xâm. Thắng quân thù ta sướng vui ngàn năm. Ý chí Diên Hồng ý chí Việt Nam. » (Ý chí Diên Hồng- Đồng ca)

9. Các nhạc sỹ còn dõi theo những phản ứng của dư luận quốc tế trước cuộc chiến tranh phi nghĩa mà Trung Quốc phát động chống Việt Nam. Trong mạch cảm xúc này, nhạc sỹ Phan Nhân đã viết :

« Khắp thế giới vang lên những lời hô : không được đụng đến Việt Nam- niềm tin kiêu hãnh của loài người yêu tự do. Bọn bành trướng hiếu chiến cút ra khỏi Việt Nam ngay ! Bọn bành trướng khát máu, cút ra khỏi Việt Nam. Khắp thế giới chung lưng với Việt Nam. Bao kẻ thù đã bại vong. Nay kẻ thù sẽ bại vong. Mùa xuân vĩnh viễn sẽ rực hồng trên biển Đông... » (Không được đụng đến Việt Nam, tiếng hát Kiều Hưng, Vân Khánh)

10. Vấp phải sự kháng cự ngoan cường của quân và dân Việt Nam, quân Trung Quốc đã phải rút khỏi Việt Nam. Và đó là lúc Việt Nam tuyên bố chiến thắng. Nhạc sỹ Nguyễn Đức Toàn viết :

« Vui sao vui sao tin chiến thắng dậy non sông. Đất nước vinh quang viết trang sử anh hùng. Ta đánh thắng bọn Bắc Kinh xâm lược. Vì độc lập tự do có bao con người hy sinh cứu nước. Bốn nghìn năm lại có hôm nay. Ông cha ta bao đời bất khuất. Một biên cương chống quân xâm lược. Ải Chi Lăng vẫn còn đây. Bạch Đằng Giang đang dậy sóng. Cho đến hôm nay chiến thắng vang lừng nước non này. » (Chiến thắng vinh quang, Đồng ca Đài)

còn nhạc sỹ Phạm Minh Tuấn viết về chiến thắng trên khắp dải biên cương như sau :

« Tiếng hát chiến thắng vút lên trên miền biên cương. Quảng Ninh, Hoàng Liên Sơn cùng Lai Châu, Đồng Đăng thắng lớn... Toàn dân Việt Nam ta, 50 triệu người là 50 triệu chiến sỹ. La la la ! Độc lập tự do ta yêu ta quý vô vàn. Hát vang bài ca chiến thắng, nức lòng ta quân tiên phong. » (Tiếng hát chiến thắng, tốp nam, Tiến Thành lĩnh xướng)

11. Các ca khúc của thời kỳ này còn có một đặc điểm chung là thường xuyên nhắc tới các địa danh từng ghi dấu những chiến công oai hùng trong lịch sử dân tộc như Chi Lăng, Bạch Đằng, Đống Đa, Diên Hồng. Bên cạnh đó, rất nhiều ca khúc thể hiện thái độ tấn công trực diện, gọi Trung Quốc là « bọn bành trướng dã man », « bọn Bắc Kinh xâm lược », « bọn hung nô », « kẻ thù không đội trời chung », « quân xâm lăng », « quân cướp Bắc Kinh » … Đây có lẽ là đặc điểm làm nên tính « nhạy cảm » sau này của hệ thống ca khúc chống bành trướng. Đặc điểm này cũng dẫn tới hiện tượng sửa lời bài hát cả trong và sau cuộc chiến. Chẳng hạn Phạm Tuyên viết « quân xâm lược bành trướng dã man » trong bản gốc, nhưng trong thời chiến nhiều người hát là « quân xâm lược bành trướng Bắc Kinh ». Tương tự như vậy, Trần Tiến viết « đánh tan quân xâm lược dã man » thì nhiều người chuyển thành « quân xâm lược Bắc Kinh ». Ngược lại, sau này để tránh nói tới Trung Quốc trực tiếp như cách hát của Ngọc Tân trong bài Mẹ ơi con lên đường của Thuận Yến, « giặc Bắc Kinh kéo tới xâm lăng, gieo đau thương, tàn phá nơi biên thùy », ca sỹ Ngọc Đức (văn công không quân) đã chuyển lời thành « dù biên cương núi khuất mây che, con ra đi vì nước non mong chờ »...

12. Giá trị đặc biệt của nhiều ca khúc ra đời trong thời kỳ chiến tranh biên giới còn nằm ở chỗ chúng được viết từ cảm xúc xuất thần của các nhạc sỹ. Nếu như Phạm Tuyên đã từng xuất thần với « Như có Bác trong ngày vui đại thắng » khi cảm xúc của nhạc sỹ thăng hoa vào đúng ngày 30/4 thì lịch sử đã lặp lại vào ngày 17/2 khi ông cho ra đời « Tiếng súng đã vang trên bầu trời biên giới » (tên gọi dân gian của bài hát) với một nguồn xúc cảm tương tự. Có lẽ đây là bài hát được nhiều người nhắc đến nhất khi nói tới chiến tranh biên giới phía Bắc. Bài hát gần như gói gém tất cả suy nghĩ, cảm xúc và phản ứng của cả dân tộc Việt Nam khi ấy đối với hành động gây chiến của Trung Quốc. Nếu coi bài hát này là biểu tượng bằng âm nhạc về cuộc chiến chống bành trướng của người Việt Nam thì cũng không quá đáng. Bài hát có 2 bản thâu âm còn được giữ cho tới ngày nay. Một bản do nghệ sỹ Tiến Thành lĩnh xướng cùng với nghệ sỹ Bạch Kim. Một bản do đồng ca nam nữ Đài Tiếng nói Việt Nam thể hiện, được dàn dựng và thu thanh cùng thời điểm với « Chẳng kẻ thù nào ngăn nổi bước ta đi » của Thanh Phúc.

Thực ra xét ở nhiều khía cạnh, CHIẾN ĐẤU VÌ ĐỘC LẬP TỰ DO chưa chắc là bài hát xuất sắc nhất của thời kỳ này. Chung mạch cảm xúc đó người ta còn thấy những ca khúc hoành tráng hơn và mạnh mẽ hơn, như « Bài ca biên giới anh hùng » của Nguyễn Đức Toàn, với những câu hát : « Mẹ ơi con lên đường » của Thuận Yến (Ngọc Tân hát), « Hãy cho tôi lên đường » của Hoàng Hiệp (Ái Vân hát), v.v. Nhưng có lẽ điều đặc biệt mà « Tiếng súng đã vang trên bầu trời biên giới » có được chính là thời điểm và cách thức nó ra đời. Được biết bài hát đã được phát đi trên làn sóng điện của Đài Tiếng nói Việt Nam chỉ ít giờ đồng hồ sau khi quân Trung Quốc tràn vào bờ cõi nước ta. Thêm vào đó phải nói đến vai trò của nhạc sỹ Phạm Tuyên. Khi đó ông là trưởng ban biên tập âm nhạc của Đài, có vai trò lựa chọn, giới thiệu các bài hát. Bài hát này đã được sử dụng gần như nhạc hiệu sau các bản tin về chiến sự và các chương trình phát thanh quân đội.

13. Nghe những bài hát sáng tác trong thời kỳ này, người ta cũng sẽ có ấn tượng rằng chủ nghĩa lãng mạn cách mạng quả thực đã trở thành một dòng chảy liên tiếp từ hai cuộc kháng chiến thần thánh trước đó cho tới cuộc chiến chống bành trướng. Nếu như trong kháng chiến chống Mỹ đã có Bài ca Trường Sơn của Trần Chung với hình ảnh hết sức lãng mạn, gần như thoát ly khỏi thực tế nghiệt ngã và tàn khốc của chiến tranh (mà sau này có người ác ý hoặc ít hiểu biết về văn học cho là sự lừa dối) : «Trường Sơn ơi, trên đường ta qua không một dấu chân người, có chú nai vàng nghiêng đôi tai ngơ ngác » thì Nguyễn Đức Toàn đã mô tả không khí hành quân của các binh đoàn bộ binh trên đường ra biên giới như sau :

« Lên xe, lên xe, lên xe ta đi. Trông cây lúa chín dọc đồng quê. Nghe con sáo nó hót đầu ngọn tre. Tiếng súng vang vang trên khắp tuyến đường. Những chuyến xe ra tiền phương... »

Bằng giai điệu rộn ràng và phần hòa âm dựa trên nền accordeon giống như giai điệu của « Chào em cô gái Lam Hồng », người nghe được truyền một cảm giác lạc quan. Tiếng súng mà ngỡ như tiếng trống hội. Đi đánh giặc mà ngỡ như đi trảy hội...

14. Tình đồng đội, tình yêu lứa đôi, tình yêu tiền tuyến và hậu phương vẫn là nguồn cảm xúc không thể thiếu trong kho tàng ca khúc thời kỳ này. Những bản tình ca ra đời trên biên giới trên thực tế đã hòa mạnh nhất vào dòng chảy ca khúc của tân nhạc Việt Nam và trở thành những bản tình ca đi cùng năm tháng. Đó chính là « Tiếng đàn bên bờ sông biên giới » của Phạm tuyên mà trong suốt những năm 80 đã trở thành nhạc hiệu của chương trình ca nhạc trên đài truyền hình Việt Nam. Đó chính là « Chiều biên giới » của Trần Chung với « khi mùa đào hé nở, khi mùa gió sang cây, đôi ta cùng chiến hào, tình yêu là tiếng hát giữa đất trời quê hương » ; hay « bản tình ca đầu tiên ra đời trên biên giới là bản tình ca anh viết cho em » (Tình ca tuổi trẻ, Tôn Thất Lập). Tình tứ và sâu lắng hơn nữa phải kể đến « Tình ca mùa xuân » của Trần Hoàn với cặp song ca Thúy Lan và Phan Huấn : « Em ơi em mùa xuân đã về trên cánh lá, tiếng chim kêu ngọt quá cho trời xanh xanh thẳm ... mùa xuân biên giới súng anh gác trời xa ». Nổi tiếng nhất phải kể đến « Gửi em ở cuối Sông Hồng » được nhạc sỹ Thuận Yến viết phỏng theo thơ của Dương Soái. Bài hát xuất hiện lần đầu vào đầu năm 1980 với cặp song ca Tiến Thành và Thanh Hoa và ngay lập tức trở thành một tiết mục không thể thiếu trong bất kỳ một chương trình biểu diễn ca nhạc nào. Ngoài Tiến Thành, Thanh Hoa còn song ca rất thành công bài hát này với Ngọc Tân, Quang Lý...

15. Phong trào đặt lời mới cho dân ca cũng là mảng sáng tác phát triển mạnh thời kỳ này mà nội dung lời mới chủ yếu gắn với cuộc chiến bảo vệ biên giới. Cho tới nay nhiều khúc dân ca lời mới này vẫn được phổ biến. Tiêu biểu nhất phải kể đến « Chung lập chiến công» do Đức Miêng viết lời mới dựa trên dân ca quan họ, NSND Lê Dung hát (Anh gửi theo những cánh chim điệu dân ca, tới thăm anh nơi biên giới...). Đài Tiếng nói Việt Nam còn có riêng một chương trình ca nhạc phát sóng hàng ngày có tên « chương trình ca nhạc dành cho các chiến sỹ đang làm nhiệm vụ nơi biên giới và hải đảo »

16. Thời kỳ nào nền âm nhạc Việt Nam sản sinh ra các giọng ca vượt thời gian. Thời kỳ chống bành trướng cũng vậy. Nếu như nói tới thế hệ thứ nhất của tân nhạc cách mạng người ta nói tới Mai Khanh, Trần Thụ, Thương Huyền, Tân Nhân… ; thế hệ thứ hai với Quý Dương, Tường Vy, Bích Liên, Vũ Dậu…, thì thời kỳ chiến tranh chống bành trướng là thời kỳ của Tiến Thành, Thanh Hoa, Ái Vân, Ngọc Tân, Vân Khánh… Nếu thống kê lại, người ta sẽ thấy tiếng hát của Tiến Thành, Ngọc Tân, Vân Khánh xuất hiện ở hàng trăm ca khúc của thời kỳ này, nhất là nghệ sỹ Tiến Thành. Tiến Thành là ca sỹ lĩnh xướng hoặc nam ca sỹ hát song ca hầu hết các ca khúc của giai đoạn này. Vì thế, hoàn toàn không quá lời nếu ai đó nói Tiến Thành là « ca sỹ chống bành trướng ». Nhưng cũng chính vì thế nhiều người nói Tiến Thành ... thiệt thòi khi hầu hết các ca khúc ra đời trong thời kỳ này về sau không còn được phổ biến nữa.

17. Hai nước láng giềng xung đột với nhau vốn là điều không hy hữu trong lịch sử, nhưng bao giờ cũng là việc cực chẳng đã. Nhất là Việt Nam và Trung Quốc trong vài thập kỷ trước đó còn coi nhau « vừa là đồng chí, vừa là anh em », « môi hở răng lạnh ». Cũng trong âm nhạc, thì mối quan hệ hữu hảo đặc biệt lúc đó đã được hát rằng : « Việt Nam- Trung Hoa, núi liền núi, sông liền sông, mối tình hữu nghị sáng như dòng sông ». Tình tứ, da diết và trong sáng hơn nữa phải kể tới mối tình Việt-Trung trong Mộc Miên Hoa của Huy Du, trong đó có đoạn : « Hồng Hà ơi, Dương Tử ơi đôi ta có mối tình trong sáng, mang theo phù sa tới bốn phương trời. Đây Hồ Chí Minh, đây Mao Trạch Đông, ngôi sao chỉ nam đời đời soi sáng đường chúng ta đi ... »

18. Cũng cần lưu ý rằng ngay cả trong thời kỳ chiến tranh biên giới và những năm căng thẳng sau đó, Việt Nam và Trung Quốc chưa bao giờ cắt đứt quan hệ ngoại giao. Mỗi nước vẫn duy trì sứ quán của nước mình tại thủ đô nước kia. Mối quan hệ thù nghịch một cách công khai và chống phá nhau một cách toàn diện trên tất cả các mặt trận chính trị, kinh tế, tư tưởng, văn hóa, tức là chiến tranh tổng lực, chiến tranh nhân dân, trên thực tế , có lúc lại chỉ được đơn giản hóa là một mối quan hệ không bình thường, thậm chí dư luận quốc tế cũng chỉ gọi chung chung là xung đột biên giới, các cuộc đụng độ ở biên giới (border skirmishes). Dù nói theo cách nào thì đó cũng là một mối quan hệ không bình thường và một giai đoạn lịch sử không bình thường.

19. Thiện chí muốn bình thường hóa quan hệ với Trung Quốc được nêu chính thức trong văn kiện của Đại hội Đổi mới của ĐCS VN, đại ý nói rằng Việt Nam sẵn sàng ngồi lại đàm phán với Trung Quốc ở bất kỳ đâu, vào bất kỳ thời điểm nào và trên bất kỳ vấn đề gì nhằm tiến tới bình thường hóa quan hệ song phương. Tiếp sau đó, vào năm 1988, cùng năm Trung Quốc đưa tàu chiến tấn chiếm một phần Trường Sa, Việt Nam đã có một động thái hết sức quan trọng nhằm tiến tới một mối quan hệ bình thường giữa hai nước bằng việc sửa lại lời nói đầu của Hiến pháp 1980, không còn nêu Trung Quốc là « kẻ thù truyền kiếp không đội trời chung » nữa. Đi kèm theo nó, hai bên cũng thỏa thuận chấm dứt các hoạt động chống phá lẫn nhau trên cả mặt trận tư tưởng, văn hóa. Một trong những việc làm thực hiện thỏa thuận này của phía Việt Nam là việc gỡ bỏ phần trưng bày về chiến tranh chống bành trướng ra khỏi Bảo tàng Cách mạng Việt Nam. Tương tự như vậy, tất cả các tài liệu, ấn phẩm, các tác phẩm văn học, nghệ thuật tuyên truyền chống nhau đều CHẤM DỨT LƯU HÀNH . Và đó là lý do mà không ai còn nghe thấy từ làn sóng điện của Đài Tiếng nói Việt nam hay Đài truyền hình Việt Nam những câu hát như « Tiếng súng đã vang trên bầu trời biên giới nữa ». Được biết, Việt Nam và Mỹ gần đây cũng có thỏa thuận tương tự. Mà đã là thỏa thuận thì rất cần được tôn trọng.

20. Tuy nhiên, ở đây có ít nhất hai góc độ để nhìn nhận câu chuyện âm nhạc này, một là đối ngoại, hai là lịch sử dù rằng hai góc nhìn không có sự tách biệt tuyệt đối. Còn nhớ, trong một cuộc tọa đàm hẹp, nhà sử học Dương Trung Quốc đã nêu vấn đề chiến tranh biên giới với một lãnh đạo cao cấp của nước ta. Đồng chí lãnh đạo này, trong khi ghi nhận sự cần thiết phải đi đến cùng trong nghiên cứu khoa học lịch sử nhằm tiếp cận chân lý, vẫn khẳng định rằng trong chính trị, đối ngoại không phải điều gì cũng nên được phơi bày, nhất là vào thời điểm không thích hợp. Thiết nghĩ, đó cũng là sách lược hợp lý, tựa như cách « trong xưng bá, ngoài xưng vương » của cha ông ta ngày xưa.

Tuy nhiên, xử lý mối quan hệ giữa ngoại giao và lịch sử là cả một nghệ thuật. Điều đáng lưu ý là ranh giới giữa sự khéo léo, tinh tế, với dĩ hòa vi quý và sự nhu nhược là khá mong manh. Sự quá đà trong đòi hỏi về sự sòng phẳng trắng đen trong lịch sử có thể làm khó, thậm chí đổ vỡ cho các nỗ lực giao hảo. Nhưng đồng thời sự dĩ hòa vi quý sẽ trở nên vô nghĩa, thậm chí nguy hiểm một khi nó bị lạm dụng tới độ né tránh lịch sử, biến tất cả những sự thật của lịch sử thành những điều nhạy cảm và cấm kỵ. Khi ấy, thái độ đó sẽ đồng nghĩa với sự chối bỏ lịch sử, lảng tránh lịch sử, và theo thời gian nó gây ra hệ lụy biến cái chính nghĩa thành phi nghĩa.

TMH, tháng 2-2009

Thursday, 6 November 2008

KIỂU HƯNG- Tài hoa & Lưu lạc (November 07, 2008)



(Có cả trăm bài bác Kiều Hưng và cô Xuân Thanh hát, nhưng 360° không cho post nhạc nữa nên đành chịu thôi)

Tác giả: Hữu Việt- Báo Tiền Phong

Đến với âm nhạc một cách tình cờ nhưng Kiều Hưng nhanh chóng khẳng định được tài hoa của một ca sĩ thực thụ. Nhắc đến Kiều Hưng là người ta nhớ đến những tác phẩm có dấu ấn gần như kinh điển.

img
Ca sĩ Kiều Hưng. Ảnh: HV
Buổi biểu diễn văn nghệ do Hội Việt - Mỹ và Hội cứu trợ trẻ em tàn tật Hà Nội tổ chức tại khách sạn Opera Hilton vào dịp kỷ niệm 10 năm bình thường hóa quan hệ ngoại giao giữa Việt Nam và Hoa Kỳ có số khách quá đông. Nhiều người đến chậm phải đứng ngoài sảnh của khách sạn, một số lục tục ra về.

Bỗng qua khe cửa phòng hòa nhạc vang vút lên: “Khi cất lên tiếng ca gửi về người yêu phương xa...” (Tình ca - Hoàng Việt). Tiếng hát vừa lạ vừa quen, như đã bị lãng quên, mà vẫn hiện hữu... có sức cuốn hút lạ lùng, khiến những người đứng ngoài đổ xô vào trong phòng.

Người nghệ sĩ vóc dáng nhỏ bé, đã luống tuổi, nhưng giọng hát thì gần như không bị thời gian làm hề hấn gì: Đẹp, mượt mà, da diết. Nghe tiếng hát những người thuộc thế hệ chúng tôi, hoặc muộn hơn một chút trở về trước, đều có thể gọi đúng tên ông: Kiều Hưng. Hai năm nữa ông bước sang tuổi cổ lai hy.

Kiều Hưng hát liền một mạch 3 bài. Ông dễ dàng vượt qua những quãng nhạc khó và liên tục nhận được những tràng pháo tay tán thưởng. Không chỉ khán giả Việt có mặt hôm đó thích tiết mục của ông, những vị khách Mỹ đứng gần tôi cũng vỗ tay rầm rầm khi ông hát xong bài “Oh, Susanna !- S. Foster”

Cách đây lâu lắm rồi, nghe đồn Kiều Hưng đi Nga xuất khẩu lao động (?), rồi trốn sang Đức tị nạn? Đất nước thời mở cửa, hội nhập, thanh niên thích nghe nhạc mới, tên tuổi ông dần bị lãng quên.

Nhưng nghe mãi “tóc nâu môi trầm, thấy em ngoài phố đông”, “em đến bên anh, tình yêu dối lừa” v.v... người ta bỗng chợt nhận ra, những bài hát ngày xưa ca từ mới thật hay, thật sâu sắc, còn nhạc thì thật đẹp. Một trong những người thể hiện xuất sắc nhất dòng nhạc cách mạng, kháng chiến và xây dựng xã hội mới ấy chính là Kiều Hưng.

Trước ngày Kiều Hưng lên đường quay lại nước Đức, tôi đã có cuộc trò chuyện kéo dài khoảng 7 tiếng với ông trong một quán giải khát. Nghe ông tâm sự về cuộc đời lạ lùng, đầy biến cố của mình tôi chợt nhận ra một điều. Có những người nghệ sĩ mà tài năng và số phận thật mong manh. Một cơn gió mạnh có thể nâng họ bay vút lên, nhưng cũng có thể hất họ xuống vực. Như một chiếc lá. Những chiếc lá như thế rất cần đến sự cảm thông, rộng lượng, tha thứ nhiều hơn là trách cứ, hắt hủi.

Hôm ấy Kiều Hưng đã kể với tôi rất thật, gần như toàn bộ về cuộc đời ông: “Đáng lẽ anh định dành kể câu chuyện này cho Trần Đăng Khoa. Nhưng Khoa dạo này bận quá...”.

Chúng tôi thoả thuận là, những chi tiết riêng tư có thể làm một số người trong cuộc bị tổn thương, tôi sẽ chưa được phép công bố cho đến khi nào ông đồng ý. Và vì vậy, câu chuyện dưới đây mới chỉ là những mảnh ghép của cuộc đời một ca sĩ - từ cậu bé nông thôn thiệt thòi, yếm thế nhưng giàu nghị lực đến người nghệ sĩ tài hoa và lưu lạc.

“Tôi sinh ở làng Thường Xuyên, nằm bên bờ sông Nhuệ, thuộc huyện Phú Xuyên, tỉnh Hà Đông (nay là Hà Tây). Gia đình tôi, ngày xưa gọi là địa chủ nông thôn. Nhà có khoảng 30 mẫu ruộng, 4 con trâu. Bố tôi mất năm tôi mới 2 tuổi. Nhà hiếm con trai nên ông cụ cứ phải... lấy nhiều vợ, mẹ tôi là người thứ 7. Tuy là gia đình địa chủ nhưng thân phận lẽ mọn nên chẳng khác gì người làm...”.

Kiều Hưng sống một tuổi thơ cô độc, ngơ ngác. Người anh gầy nhỏ, nên thường bị bắt nạt. Mẹ anh suốt ngày lao động vất vả, cơm phải ăn cùng với thợ. Nhà chủ ăn cơm trắng, còn thợ chỉ được ăn cơm vàng. “Tuổi các em chắc không biết “cơm vàng” là cái gì đâu. Nó được nấu bằng gạo hẩm, xay từ thóc mót quanh những cây rơm, nên có màu vàng”.

Kiều Hưng lấy khăn tay lau nước mắt. Thương mẹ quá, nhiều hôm anh lén giấu phần xôi sáng, ủ vào chăn, đợi đến tối mẹ đi làm về lấy ra mời mẹ...

Cha mất sớm, mọi quyền bính trong nhà nằm trong tay người anh cả. Người anh rất nghiêm khắc. Những khi Kiều Hưng mắc lỗi, bị người anh phạt, bắt quỳ trên hai chiếc bát úp ngược. Mẹ anh, cho dù rất xót con cũng không dám xin.

“Anh cả mua rất nhiều đĩa hát. Những hôm uống rượu say anh cả gọi tôi lên nhà trên, bắt bóp chân cho anh nằm nghe nhạc”. Không ngờ, từ đây những bài học âm nhạc đầu tiên, tự nhiên, lặng lẽ bám rễ vào tâm hồn đa cảm của cậu bé Kiều Hưng. “Sở dĩ sau này tôi hát tốt nhiều làn điệu dân ca và những bài hát nước ngoài cũng là nhờ được “luyện âm” từ thuở ấy”.

Tôi hỏi: “Năm nay ông 68 tuổi, vẫn giữ nguyên được giọng hát, có bí quyết gì không?”

“Trời cho là chính. Thêm nữa, tôi không bao giờ hút thuốc lá”.

Kiều Hưng thú thật, hồi nhỏ do sức yếu nên học văn hoá rất xoàng. Đến tuổi thiếu niên, gia đình đưa anh ra Hà Nội. Anh từng học nghề may trong nhà mấy ông chú ở phố Hàng Đào. “Suýt nữa tôi trở thành thợ may rồi! Đến bây giờ tôi vẫn còn nhớ cách thùa khuyết”.

Thế nhưng hình như tiếng gọi của số phận đã nhắc đến tên anh. Nghe tin nhạc viện tuyển sinh cho khoá thanh nhạc đầu tiên của nước Việt Nam dân chủ cộng hoà, anh đến đăng ký. “Tôi nhớ cùng thi với mình có anh Trung Kiên. Hồi ấy tôi hát đã bắt đầu hay rồi...” - “Hôm ấy ông hát bài gì?”. Kiều Hưng hát luôn: “Bạn ơi đi với tôi lên đỉnh núi khi trời chiều... bài Leninski Gory - Đỉnh núi Lê nin, do một chị đi Nga về dạy lại”.

Hát xong, giám khảo là một ông thầy người Trung Quốc gật gù, khen ngợi. Thế nhưng khi công bố kết quả thì Kiều Hưng lại trượt! “Tôi bao giờ cũng cố gắng nói thật. Sự thật mới hay, giả dối chẳng có nghĩa gì. Lí lịch của mình tôi thành thật khai là con địa chủ, nhưng thuộc thành phần bị áp bức; năm 54 tôi có vào Nam với người chị mấy tháng rồi quay ra Bắc v.v... tóm lại có gì tôi khai tất tật.

Nhưng lúc ấy cũng chưa biết lí do vì sao mình lại trượt! Chỉ thấy buồn. Tôi còn biết ngâm thơ, giọng đọc cũng khá nên sau khi không đỗ vào nhạc viện, tôi xin đi làm thuyết minh phim, nhưng viết hàng trăm lá đơn, chẳng đâu nhận...”.

Để có tiền học thêm văn hoá, Kiều Hưng phải dậy từ 3, 4 giờ sáng, đi bỏ mối báo, tối lại dạy kèm thêm trẻ em trong phố. Khi học sắp xong phổ thông thì Đoàn ca múa nhạc Trung ương tuyển người. May mắn thay, lần này Kiều Hưng được nhận vào làm hợp xướng viên. Nhưng những lúc rỗi anh được giao thêm nhiệm vụ giúp chị Tình - thủ kho, đánh giầy, là quần áo cho các diễn viên khác.

“Bao giờ thì ông được hát đơn ca?”

“Chính thức thì trong phim Vợ chồng A Phủ. Nhạc sĩ Nguyễn Văn Thương khi đó là trưởng đoàn của chúng tôi được mời viết nhạc cho bộ phim này. Anh Vũ Chất là trưởng tốp hát nam được phân công hát. Anh đóng cửa tập: “Ơ... đầu trời có sao chiều, sao sớm, đầu núi kia có ở hai người yêu nhau...”.

Tôi thuộc giai điệu, thỉnh thoảng lẩm nhẩm hát theo. Có người nghe thấy, mách với ông Thương. Ông Thương gọi tôi lên, bảo hát thử. Nghe xong, ông nói, được, Kiều Hưng hát luôn nhé. Hôm phim chiếu ra mắt ở rạp Tháng Tám, lần đầu tiên tôi nghe thu thanh chính tiếng hát của mình, cảm động đến trào nước mắt.

Ông La Thăng, đội trưởng đội ca ngồi cạnh tôi khen: “Thằng nào hát hay quá!”. Tôi thưa: “Em hát đấy ạ!”. Ông Thăng nhìn tôi có vẻ ngạc nhiên. Tôi ngồi cắt tóc, lại nghe người thợ cạo nói một câu tương tự: “Thằng đ. nào hát trong phim Vợ chồng A phủ hay quá!”. Được quần chúng khen, trong lòng thấy thích lắm, nhưng tôi không dám khoe nữa. Bài hát này được phát trên đài, thính giả khắp nơi gửi thư về động viên, khuyến khích. Từ đó đoàn mới chính thức công nhận tôi hát được đơn ca”.

Vào những dịp 20/7 hàng năm là Ngày đấu tranh thống nhất và Quốc khánh 2/9, Kiều Hưng thường được biệt phái vào Đoàn ca múa miền Nam, đi biểu diễn ở vùng giới tuyến, Bến Hải, Cửa Tùng.

img
Kiều Hưng đăng ký tác phẩm tại trung tâm bản quyền tác giả âm nhạc (7/2005). Ảnh: H.V
Bên kia bờ sông Bến Hải, địch lắp loa cá sấu của Mỹ. Mỗi khi ta biểu diễn, chúng lại bật lên át hết cả tiếng. Bên mình cũng có một dàn loa Trung Quốc gồm 36 cái, xếp theo hình bông hoa, nhưng không ăn thua so với họ. Những khi không hát được thì ta cho múa ra. Địch lại tổ chức một tốp nữ thanh niên mặc áo dài, xếp hàng, tay dứ quả đấm sang khiêu khích. “Nhưng đồng bào mình ở bên ấy cứ giả vờ giặt chiếu, rửa rau, đứng ngâm chân dưới sông để nghe ca nhạc miền Bắc. Chúng tôi lại hát càng hăng...”.

“Chuyến đi Nam nào ông nhớ nhất?”

“Năm 1966 Bộ Văn hoá tổ chức một đoàn ca múa nhạc gồm các nghệ sĩ hàng đầu đi vào tuyến lửa Vĩnh Linh, Quảng Bình, Đường 9 Nam Lào. Ca có anh Quốc Hương, múa có chị Phùng Thị Nhạn, các anh Mạnh Hùng, Đinh Thìn... Nhạc sĩ Nguyễn Đình Phúc (tác giả các bài hát nổi tiếng Cô lái đò, Tiếng đàn bầu...) làm trưởng đoàn.

Chuyến đi này khá gian khổ. Có hôm gặp máy bay oanh tạc, bom nổ hất cả tôi và chị Phùng Thị Nhạn xuống rệ đường. Có hôm chúng tôi cùng tham gia tiếp đạn cho bộ đội phòng không đánh giặc. Buổi tối thắp đèn dầu hát, khi máy bay nó đến, phải lấy dù chùm lên che bớt ánh sáng để hát tiếp. Xuống tận giao thông hào hát phục vụ thương binh... vừa hát chúng tôi vừa khóc.

Nhạc sĩ Trần Hữu Pháp tình cờ nhặt được mẩu báo có in bài thơ “Em bé Bảo Ninh”, anh đem phổ nhạc. Tôi tập, hát luôn: “Em bé Bảo Ninh, bên bờ Nhật Lệ...”. Với bài hát còn nóng hôi hổi đó, tôi hát tại các trận địa phục vụ bộ đội và bà con, ở đâu cũng được hoan nghênh nhiệt liệt. Nhờ chuyến đi này mà anh chị em nghệ sĩ mới thâu lượm được thêm nhiều điều có ý nghĩa về cuộc chiến tranh giải phóng và bảo vệ Tổ quốc của quân dân ta”.

Trên đường ra Bắc, có một câu chuyện mà Kiều Hưng nhớ mãi. Đến bến phà sông Gianh đang vào giờ cao điểm, nhưng xa nhà đã lâu ngày, anh chị em nghệ sĩ liều, rủ nhau tranh thủ sang sông. Ông Nguyễn Đình Phúc giang tay ngăn lại: “Các em phải chấp hành nguyên tắc. Các em là vốn quý của đất nước, không được chủ quan. Nhân danh trưởng đoàn và người chỉ huy cao nhất ở đây, tôi ra lệnh cho tất cả ở lại!”.

Trong suốt thời gian đi vào tuyến lửa, ông Nguyễn Đình Phúc là người nhẹ nhàng, tâm lý, thương yêu mọi người nên rất được anh chị em nghệ sĩ kính trọng. Đây cũng là lần đầu tiên ông dùng mệnh lệnh. Thế nhưng lúc ấy trời yên tĩnh, nên mọi người không nghe, cứ ùa lên phà. Ông Phúc giận, quay lại ngồi bên này sông một mình, chờ đến chiều, hết giờ cao điểm mới sang. Thế là những người đã qua được sông rồi vẫn phải ngồi chờ. Chờ mà ân hận và thương người thủ trưởng hết lòng vì các nghệ sĩ mà ông gọi là “vốn quý của đất nước” !

Một thời gian sau, Bộ Văn hoá tổ chức đoàn văn công đi biểu diễn ở 12 nước XHCN. Kiều Hưng nhỏ con, lại còn trẻ, nhưng nhờ có thành tích trong chuyến đi nói trên nên cũng được xếp vào đoàn làm hợp xướng viên. Sát ngày lên đường thì ông Giáp, phó đoàn thông báo tin gấp: Bộ Văn hoá có công văn cử chị Tường Vi và chị Khánh Vân đi học ở Liên Xô. Thế nhưng các chị muốn tham gia biểu diễn hơn, nên từ chối. Nay nếu ai có nguyện vọng du học thì sẽ được đi thế vào suất này.

“Nghe được đi học, tôi mừng quá, nhận ngay. Thế nhưng khi ấy lại có đơn kiện, Kiều Hưng hát hay, có thành tích, nhưng người nhỏ yếu, không biết có đủ sức khoẻ không? Kiều Hưng chỉ hát dân ca, nay lại đi học opera có phí không? v.v... Đúng là con người ta có số vất vả thật. Nhưng vì không còn người đi học, và tôi cũng hứa sẽ tích cực rèn luyện sức khoẻ nên cuối cùng đã được chấp nhận !”.

Kiều Hưng được phân về học ở Nhạc viện Kiev. Có lẽ đây là thời kỳ ông cảm thấy được bình yên nhất. Đất nước Liên Xô ngày ấy với ông, chẳng khác gì trong những cuốn tiểu thuyết ông được đọc và như trong bài hát của nhạc sĩ Nguyễn Văn Tí: “Nhân dân Liên xô vui hát trên đồng hoa...”.

Ông lại được học cùng với nghệ sĩ Trung Kiên. “Hai anh em ở cùng phòng, học cùng thầy. Chúng tôi rất quý mến nhau. Anh Trung Kiên là người có chất giọng đặc biệt, bẩm sinh đã là teno cao, khi hát thường cao hơn nửa tông hoặc một tông so với người bình thường thì mới đạt tới độ trong sáng và hay nhất. Anh cũng là người thông minh, học nhanh, hát romance của Traicôpxki là những bài khó mà anh vẫn đạt kết quả rất tốt”.

Sau này khi Kiều Hưng đã ở CHLB Đức, ca sĩ Trung Kiên khi ấy là thứ trưởng Bộ Văn hoá dẫn một đoàn VN đi biểu diễn ở mấy nước châu Âu, hai ông đã gặp lại nhau. Tuy khoảng cách, địa vị không còn như xưa nhưng theo Kiều Hưng kể lại thì họ vẫn cư xử với nhau khá thân mật.

Thứ trưởng Trung Kiên mời Kiều Hưng ở lại nghỉ cùng phòng để trò chuyện, nhưng Kiều Hưng từ chối vì bận việc. Ông Kiên còn tỏ ý sẵn sàng đứng ra bảo lãnh nếu Kiều Hưng có ý định trở về VN. Thật không may là lúc ấy Kiều Hưng mới nhận lời tham gia một show biểu diễn ở bên Mỹ nên đã để lỡ đi một dịp có thể hồi hương.

Ở Kiev bấy giờ họ có một cộng đồng âm nhạc khá mạnh. Nam có Trọng Khanh, Trung Kiên, Kiều Hưng... nữ có Thanh Trì, Mai Khanh... sau đó có thêm nhạc sĩ Nguyễn Đức Toàn, nghệ sĩ Trần Thu Hà (Giám đốc nhạc viện Hà Nội bây giờ) sang.

Thường khi thi tốt nghiệp, SV Việt phải hát ghép với một SV Nga. Riêng Kiều Hưng, là người đầu tiên được hát một mình cả một chương trình. Ông đóng hai vai: giáo viên vũ đạo Priker và nhà thơ Lenski trong vở opera nổi tiếng Evghenhi Onhegin. Giọng hát của ông được thu làm tài liệu giảng dạy của nhà trường.

img
Kiều Hưng (thứ 2 từ trái sang) tại Festival quốc tế âm nhạc và múa dân gian (Mátxcơva)
Năm 1972, Kiều Hưng tốt nghiệp. Lúc chia tay, bà giáo người Nga cứ ôm lấy ông khóc và nói: Ôi, những học sinh yêu quý cuối cùng của tôi! Hình như bà linh cảm được tuổi già, chiến tranh và cách trở khiến mình không bao giờ còn gặp lại các học trò Việt Nam này nữa. Tất cả đều chảy nước mắt.

Thật ra gần 20 năm sau, năm 1991, Kiều Hưng sang Nga, có về thăm lại trường xưa và tìm gặp cô giáo cũ xin học tiếp. Nhưng bà giáo đã quá già, không thể dạy ông được nữa. Tuy nhiên bà vẫn nhiệt tình viết thư giới thiệu để ông được vào làm thực tập sinh ở trường Đại học Văn hoá Mátxcơva. Tôi để ý thấy, khi nhắc đến cô giáo mình, Kiều Hưng mấy lần lấy khăn tay ra chấm nước mắt. Đây cũng là cử chỉ ông thường làm khi kể về mẹ.

Về nước, Kiều Hưng tiếp tục cống hiến cho ca nhạc cách mạng. Giọng của anh đã đạt tới độ chín. Những bài hát do anh thể hiện như: Hồ Chí Minh đẹp nhất tên Người, Tiếng hát Thành phố mang tên Người, Tiếng đàn bầu, Rặng trâm bầu, Thành phố hoa phượng đỏ, Tình ca, Người đi xây hồ Kẻ Gỗ, Trước ngày hội bắn, điệu Giã bạn v.v... đã để lại những dấu ấn gần như kinh điển

Đặc biệt bài Hồ Chí Minh đẹp nhất tên Người Kiều Hưng hát sau nhiều ca sĩ khác nhưng anh đã có những thành công đặc biệt. Khi anh cất lên tiếng hò, được sự trợ giúp của dàn tốp ca nữ và tài phối âm, phối khí của nhạc sĩ Cao Việt Bách, không gian như trải rộng thêm, mênh mang và có độ vang vọng mới.

Bài hát này đã được thu thanh và gửi đi phát trên đài phát thanh của tất cả các nước XHCN. Một bài hát khác là Tình ca, Kiều Hưng cũng hát sau nhiều người, thế nhưng cùng với giọng hát của anh, Tình ca đã được chọn vào tuyển những bài hát hay nhất (mỗi nước chỉ được chọn một bài) của các quốc gia thuộc khối không liên kết.

Quãng năm 1987 - 1988, Bộ Văn hoá có chủ trương “Thanh xuân hoá đội ngũ nghệ sĩ”. “Đến bây giờ tôi vẫn còn nhớ đó là thông tri số 22 của Công đoàn Bộ Văn hoá - Kiều Hưng ngậm ngùi - theo đó, các nghệ sĩ có 50 năm tuổi đời và 30 năm tuổi nghề sẽ phải nghỉ hưu.

Đọc xong công văn, chúng tôi thấy buồn và tiếc vô cùng. Mình đang còn sung sức mà đã phải về ư? Anh thử tưởng tượng cuối những năm 80 của thế kỷ trước, người về hưu nếu không có nghề phụ thì biết sống bằng gì. Mà chúng tôi lại chỉ biết mỗi một việc là hát”.

Thoạt tiên người ta cũng chưa đụng đến các soloist xịn. Những anh chị em hợp xướng viên thuộc diện phải về trước đấu tranh dữ quá: Tại sao Kiều Hưng, Bích Liên, Đinh Thìn... vẫn được ở lại? Chẳng qua là phân công nhiệm vụ, chứ hợp xướng viên và đơn ca thì có khác gì nhau? Nếu đơn ca không phải về thì chúng tôi cũng không về! v.v...

Thế là cả soloist lẫn hợp xướng viên cùng phải về cả!

Ở tuổi 50, Kiều Hưng lại bắt đầu một hành trình đi xin việc. Hành trình này xem ra còn có vẻ gian truân, vất vả hơn khi ông mới bước vào đời.

Thoạt tiên ông tìm tới Đài phát thanh vì giọng ông thu thanh rất hợp. Ông Phan Phúc, bấy giờ là người phụ trách, nghe Kiều Hưng hát xong, nắm lấy tay ông: “Hát hay quá! Kiều Hưng hát cho đài là hợp nhất. Thế nhưng ở đài có anh Trần Khánh, đến khi gần về hưu rồi mà vẫn chưa được vào biên chế, vì ngày xưa đi kháng chiến, song không biết vì sao có thời gian lại quay về thành... Thêm nữa quy định 50 năm tuổi đời và 30 năm tuổi nghề với cơ quan Đài cũng không có ngoại lệ. Không thuận nó ở chỗ ấy nữa...”.

(Còn nữa)

PHẦN 2

Không chỉ bươn trải trong Nam, ngoài Bắc, nghệ sĩ tài hoa Kiều Hưng còn sống những ngày tháng lận đận long đong ở nước ngoài. Trong đó sang nước Nga là bước ngoặt lớn đầu tiên.

img
Nghệ sĩ Kiều Hưng
Hồi Kiều Hưng còn công tác tại Nhà hát Ca múa nhạc nhân dân TW, ông được mời dạy thêm hệ tại chức khoa Thanh nhạc, Nhạc viện Hà Nội. Nghệ sĩ Mai Khanh là trưởng khoa.

Học sinh tại chức giọng hát khá hạn chế, nhưng nhờ thầy nhiệt tình, trò cố gắng nên trong số đó có các ca sĩ như Mạnh Hưng, Tiến Hỷ... sau này đã giành được danh hiệu NSƯT. Như vậy, dù phải về hưu, nhưng chí ít ông cũng còn hy vọng có việc làm ổn định, phù hợp với chuyên môn.

Nhưng trước đây có lần đến nhạc viện, Kiều Hưng nhận được lá thư nặc danh, nội dung đại khái như sau: “Anh Kiều Hưng thân mến. Vừa rồi khoa Thanh nhạc họp, có ý kiến nói anh là soloist của nhà hát, đã được đi biểu diễn nhiều, nay còn được dạy thêm ở nhạc viện. Bây giờ thầy nhiều, trò ít, người ta định cho anh nghỉ. Vì lòng quý mến đối với anh, xin thông tin lại để anh biết...”.

Kiều Hưng mỉm cười: “Có thể người viết thực lòng quý mình, cũng có thể họ muốn làm cho mình biết khó mà rút lui... Tôi cầm lá thư lên gặp ông Nguyễn Văn Thương khi ấy vừa là giám đốc nhà hát của tôi, vừa là giám đốc nhạc viện. Lúc ấy trong phòng có cả anh Trung Kiên, người mới thay anh Mai Khanh làm Trưởng khoa Thanh nhạc. Hai người đọc xong, anh Trung Kiên không nói gì. Ông Thương bảo: “Anh để thư này lại cho tôi”. Bẵng đi một thời gian dài, không thấy ai nhắc tới lá thư đó nữa, tôi đành cho qua”.

Kiều Hưng tiếp tục tìm đến Viện Âm nhạc. Anh thấy mình còn có khả năng hát ca trù và ngâm thơ để tự tiến cử với nhạc sĩ Tô Vũ. Ông Vũ bảo Kiều Hưng hát thử. Nghe xong, ông Vũ khen: “Được lắm. Nhưng bên mình cũng làm gì có... biên chế”.

Không thể bó tay ngồi yên, nhóm nghệ sĩ tuy hết tuổi cơ quan nhưng vẫn còn sung sức tuổi nghệ thuật: Mạnh Hùng, Hữu Xuân, Bích Liên, Xuân Nhung, Đinh Thìn, Kiều Hưng... tìm đường Nam tiến, vào miền đất vốn năng động và cởi mở với những thực tài.

Ở Sài Gòn, khi nào kiếm được một show diễn nghiệp dư, nhóm nghệ sĩ miền Bắc lẫy lừng một thuở tập hợp nhau lại. Họ phải ở nhờ nhà tập thể của một công ty đường sắt...

Đang lúc lang thang chưa biết bấu víu vào đâu, Kiều Hưng bất ngờ gặp lại một người bạn học cũ là bà Ca Lê Hồng (bà Hồng là chị em với nhạc sĩ Ca Lê Thuần và nhà thơ, liệt sĩ Ca Lê Hiến - Lê Anh Xuân). Với sự giúp đỡ của bà, Kiều Hưng được làm giảng viên lớp Đại học Thanh nhạc dân tộc của trường Nghệ thuật sân khấu 2. Vì dạy môn này nên Kiều Hưng biết thêm... hò Đồng Tháp!

Thế nhưng khi lớp học kết thúc, không đủ kinh phí mở lớp mới, Kiều Hưng phải chuyển sang dạy thanh nhạc cho một lớp cải lương hệ B. Bấy giờ hệ B mang nặng tính thương mại, tuyển rất đông học sinh. Phần đông các ca sĩ tương lai này chỉ đến trường để trốn nghĩa vụ hoặc đi học... cho vui.

Với một người lao động nghệ thuật chuyên nghiệp như Kiều Hưng thì tình trạng này khiến ông vô cùng chán ngán. Điều an ủi duy nhất là, nhờ dạy ở đây mà ông được phân nhà. Đó là căn buồng tập rộng vỏn vẹn 6m2.

Khi ông đón vợ và 2 con từ miền Bắc vào mới được linh động bổ sung thêm một phòng tập rộng 6m2 nữa, vậy là 12 mét. Nếu ta nhớ lại thời gian cách đây gần 20 năm ở Sài Gòn nhà cửa không quá khan hiếm như ngoài Hà Nội thì gia đình Kiều Hưng 4 người ở một diện tích như vậy quả là quá khiêm tốn.

Năm 1991, chị Việt Bắc (vợ ca sĩ Kiều Hưng) trúng tuyển đi nghiên cứu sinh ở Nga. Một cơ hội mới mở ra với cả gia đình. Đã từ lâu Kiều Hưng muốn đi học tiếp. “Lớn tuổi rồi, nếu không hát được nữa thì học xong mình sẽ về nước đi dạy...” Như vậy ở thời điểm đó, Kiều Hưng đã tính đến bước lùi.

Kiều Hưng tư lự: “Năm ấy tôi cùng các con sang thăm nhà tôi. Nhờ có thư giới thiệu của bà giáo cũ ở Kiev, tôi được nhận vào trường Đại học Văn hóa tổng hợp Matxcơva. Ở đây tôi đã gặp vợ chồng người bạn cũ là anh Tôn Thất Chiêm và chị Xuân Thanh”. Có thể nói cuộc gặp gỡ này là bước ngoặt khiến cuộc đời của Kiều Hưng rẽ sang hướng khác mà ta sẽ nói đến ở sau.

Ngoài giờ học, bộ ba này lập thành một nhóm tham gia các chương trình công - xe (concert) của nhà trường. Liên Xô tan rã, chi phí học tập (không nhỏ) họ đều phải tự trang trải. Bộ ba nhận thêm hợp đồng biểu diễn phục vụ cộng đồng người Việt từ khắp nơi đổ về Matxcơva ngày một đông.

Thời kỳ ấy có thể gọi là thời hoàng kim của những người VN sang Nga buôn bán. Trước đó một, hai năm, mua chiếc máy tính XT ở Việt Nam với giá cắt cổ hơn 1000 USD, mang sang Nga dễ dàng bán với giá cao gấp đôi, gấp rưỡi! Còn nếu bạn đi từ Ba Lan sang Matxcơva, chỉ cần “trông hộ” một giàn máy vi tính, sẽ có người mua tặng bạn vé tàu; đến nơi lại có người đưa đón, và bạn sẽ được nhận thù lao hai vé dễ như bỡn.

Sau này thì ào ào áo gió ra quân, rồi áo thêu, áo phông, quần lót bông hồng, đồng hồ điện tử, son môi, bút chì kẻ mắt... ở nhà giá khá bèo, sang bên ấy lập tức biến thành vàng, thành đôla. “Đôm” 5, “ốp” Vòng bi, Búa liềm, Saliut... trở thành những trung tâm thương mại tấp nập. Các soái (chữ dùng để suy tôn những người giỏi buôn bán hoặc được phỏng đoán có tài sản trên 1 triệu đôla) người Việt liên tục xuất hiện.

Nhưng Kiều Hưng không phải tạng người biết lợi dụng thời thế để làm ăn. Trong không khí nóng bỏng tiền tiền tiền thời bấy giờ, ông chỉ là một kẻ “vô tích sự”.

img
Kiều Hưng, Xuân Thanh đang biểu diễn tại Leipzig 1995
Hồi ấy tôi có nhiều cơ hội qua lại nước Nga, nghe tin đồn Kiều Hưng mới bị trấn lột. Những tên cướp người Việt tống ông lên xe ô tô bịt kín, đưa vào rừng và thất vọng khi nhận ra cái người ăn mặc bảnh bao kia hoá ra chỉ là một anh nghèo kiết với vài chục rúp trong túi.

Thậm chí chúng đã định nện nạn nhân một trận cho bõ tức nếu không có kẻ trong bọn nhận ra ông đây chính là ca sĩ Kiều Hưng! Hôm đó chúng đã làm một việc “tử tế” hiếm hoi là chở Kiều Hưng quay lại metro gần nhất khi ông ấp úng nói mình không biết đường về.

Khi tôi hỏi ông thực hư chuyện này, Kiều Hưng chỉ cười: “Việc ấy thì có, nhưng đã bị thêu dệt thêm ít nhiều”. Ông trầm ngâm: “Hồi còn sống, bà cụ tôi thường bảo: May mà mày còn có giọng hát, chứ không có giọng thì đẻ chẳng biết mày làm được cái gì!” Chị Việt Bắc có một định nghĩa ngắn ngọn về chồng: “Cuộc đời anh, gói gọn lại thì chỉ có 3 chữ “H”, “A”, “T” - hát !”

Lớ ngớ giữa thời buổi kinh tế thị trường sôi sùng sục như thế thì khó mà tồn tại được. Nhưng cái khó chẳng bó được cái khôn. Nhóm ba người nảy ra sáng kiến. Ông Tôn Thất Chiêm vốn là người tháo vát và biết tiếng Pháp khá. Ông tìm thấy thông báo về các cuộc thi công - cua âm nhạc quốc tế vốn chẳng có người Việt nào thèm quan tâm dán khắp nơi ở thủ đô Matxcơva. Nhóm ba người đến ĐSQ nước chủ nhà xin đăng ký dự thi.

“Các cuộc thi đều hạn chế tuổi thí sinh dưới 30. Tôi bấy giờ đã hơn 50, nên phải khai thấp đi hơn hai chục tuổi. Vì người Việt mình có nét mặt trẻ so với người châu Âu, nên họ không biết, cho visa liền. Nhưng đến khi vào thi, có nơi đã phát hiện ra mình quá tuổi. Ở Phần Lan, mới hát xong bài đầu tiên tôi đã bị họ mời xuống. Ở Pháp người ta cũng biết tôi lớn tuổi, nhưng vì tôi hát thành công một bài aria rất khó nên họ để cho được vào vòng trong...”

“Ông có được giải gì không ?”

“Tôi lớn tuổi rồi... chỉ Xuân Thanh được mấy giải be bé”.

Mục đích của việc đi thi là để có visa vào các nước, có giải thì tốt, không có giải cũng chẳng sao. Thi xong, nhóm ba người tranh thủ thời gian còn lại biểu diễn phục vụ cộng đồng người Việt. Tuy không thể làm giàu, nhưng vẫn còn được làm nghề và có tiền tiêu là quý lắm rồi.

“Một lần đi thi chúng tôi bị hải quan cửa khẩu Lvốp giữ lại. Họ hỏi: “Các anh đi đâu, làm gì mà mỗi người chỉ có một cái vali nhỏ thế này?” - Tôi thay mặt đáp: “Chúng tôi là nghệ sĩ đi thi công - cua quốc tế!”. Cả nhóm hải quan phá lên cười ngặt nghẽo: “Qua cửa khẩu này chỉ có người Việt đi buôn thôi. Nghệ sĩ! Ha ha!”.

Họ nghi chúng tôi giấu hàng quốc cấm trong nhạc cụ nên bảo: “Nếu các anh chứng minh được mình là nghệ sĩ thì chúng tôi sẽ cho đi qua”. Cái này đối với chúng tôi không khó. Anh Chiêm đánh đàn, tôi cất tiếng hát một bài dân ca Ucraina quen thuộc. Cả nhóm hải quan đứng vây quanh ngỡ ngàng vỗ tay theo nhịp. Tôi chuyển sang hát tiếp một trích đoạn trong vở opera Evghênhi Ônhêgin. Mấy anh chàng hải quan xua tay: “Thôi, thôi, pass, pass... (cho qua)”.

Tháng 12/1994.

Lần này bộ ba đi thi ở Ý. Nhưng chuyến đi lại không thật như ý. Chẳng những không được giải mà việc tìm show diễn cho cộng đồng người Việt cũng không thành công. Trên đường về Matxcơva, họ có mấy tiếng transit qua thủ đô Berlin.

Trước khi sang Ý, ở sân bay Sheremenchievô xảy ra một chuyện bất bình thường. Khi làm thủ tục tại công an cửa khẩu, vợ chồng ông Tôn Thất Chiêm dễ dàng được cho qua, nhưng đến Kiều Hưng thì hộ chiếu bị giữ lại. Giờ bay sắp đến gần mà vẫn không thấy ai đả động gì. Vợ chồng ông Chiêm ở bên trong sốt ruột vẫy tay rối rít ra hiệu. Cực chẳng đã, Kiều Hưng đành đến gặp mấy anh công an Nga trình bày, kèm theo món tiền lót tay 50 đô.

Họ trả lại hộ chiếu cho ông và cũng không nói lí do vì sao. Đây chính là điểm mấu chốt hơn 10 năm lưu lạc trên nước Đức của Kiều Hưng mà mãi đến khi bị bắt ông mới biết.

Vợ chồng ông Tôn Thất Chiêm chưa về Nga ngay, muốn ghé vào thăm em gái ông Chiêm là nghệ sĩ piano Tôn Nữ Nguyệt Minh đang định cư ở Đức. Hai người sợ Kiều Hưng buồn nên rủ ông đi cùng, tiện thể làm luôn mấy show diễn cho cộng đồng người Việt ở đây.

Mới đầu Kiều Hưng từ chối. Thế nhưng vốn tính cả nể, vả lại thấy vợ chồng ông Chiêm nhiệt tình quá nên ông xiêu lòng. Ông không biết rằng mình đang đột nhập vào nước Đức bằng visa quá cảnh.

Sau một thời gian thăm thú và biểu diễn ở Berlin, không muốn làm phiền gia đình Tôn Nữ Nguyệt Minh, Kiều Hưng đi thăm người quen ở Munich. Ngày thứ Năm, ông định quay lại Berlin để về Nga, thế nhưng mọi người giữ lại nói, để đến thứ Bảy hãy đi vì vào các ngày lễ vé sẽ được giảm giá.

Thứ Bảy mọi người đưa ông ra ga, vẫy tay chào tạm biệt. Còn nửa tiếng nữa mới tới giờ tàu chạy, Kiều Hưng lang thang trên sân ga, ghé vào kiốt xem mấy quyển tạp chí. Bỗng từ đâu xe cảnh sát Đức ập tới. Họ đòi kiểm tra hộ chiếu của Kiều Hưng rồi lạnh lùng tống ông lên xe.

Trên xe đã có mấy người Rumani, Thổ Nhĩ Kỳ, Nam Tư... ngồi sẵn. Tất cả được đưa tới một khu nhà tập thể. Người ta phát chăn gối và cho mỗi người một suất ăn rồi lặng lẽ bỏ đi. Không biết tiếng Đức nên Kiều Hưng chẳng hiểu mô tê ra làm sao, đành phó mặc cho số phận.

Sáng hôm sau, Kiều Hưng được đưa lên phòng thẩm vấn. Nhà chức trách Đức xì xồ một hồi. Nghe phiên dịch xong, Kiều Hưng toát mồ hôi. Hoá ra căn phòng hôm qua ông ở chính là một trại tị nạn! Người ta thông báo cho ông biết ông đã nhập cư bất hợp pháp vào nước Đức, rằng ông đã vi phạm luật pháp của Đức v.v...

Cuối cùng viên chức nọ hỏi nguyện vọng Kiều Hưng muốn gì ? Ông đáp: Trở lại nước Nga. Viên chức nọ cầm quyển hộ chiếu của ông lên và trả lời: Không thể được. Hộ chiếu của ngài đã hết hạn. Mặc dù thái độ của viên chức người Đức khá nhã nhặn, nhưng từng lời anh ta nói, Kiều Hưng nghe như sét đánh ngang tai.

Bấy giờ ông mới hiểu lý do vì sao bị biên phòng Nga giữ lại ở sân bay Sheremenchievô không cho làm thủ tục xuất cảnh. Thì ra khi ấy hộ chiếu của ông chỉ còn thời hiệu là 10 ngày, về nguyên tắc ông sẽ không được rời nước Nga với quyển hộ chiếu như thế.

Anh lính biên phòng đã linh động sau khi nhận tiền lót tay mà không cho khổ chủ biết tai họa đang chờ ở phía trước. Như vậy, khi từ Ý trở về, cho dù Kiều Hưng không dừng lại ở Đức một thời gian thì thực tế anh cũng không thể vào nước Nga được nữa vì hộ chiếu đã hết hạn.

Kiều Hưng lại đề đạt nguyện vọng mới: Ông xin được về Việt Nam. Nhà chức trách trả lời: Nếu đưa ông về được VN thì chúng tôi nhẹ quá. Nhưng ông đến đây từ nước Nga, theo luật pháp của Đức, chúng tôi chỉ trả tiền vé cho ông quay lại Nga, chứ về VN thì chịu. Nhưng về Nga thì hộ chiếu của ông đã hết hạn.

Đi mắc núi, về mắc sông, đúng là họa vô đơn chí. Kiều Hưng bắt đầu thấy núng, không biết phải làm gì. Nhà chức trách chỉ ra một lối thoát duy nhất trong tình thế này: Kiều Hưng phải xin tị nạn ở Đức.

“Lúc ấy tâm trạng tôi rất hoang mang. Nhớ gia đình, bạn bè, người thân, Tổ quốc. Nhưng cho dù tôi không muốn ở lại nước Đức thì cũng chẳng thể đi đâu được nữa. Thôi thì cũng liều nhắm mắt đưa chân, thử xem con tạo xoay vần đến đâu...”.

Nghe Kiều Hưng lẩy Kiều, tôi tự hỏi, có phải câu thơ đã ứng vào hơn 10 năm lưu lạc (và còn chưa biết bao giờ mới kết thúc) của ca sĩ họ Kiều trên đất Đức hay không ?

(Còn nữa)

Tôi nói với Kiều Hưng: “Người nghệ sĩ khi xa quê hương, xứ sở thì sẽ chẳng còn làm được gì nhiều cho nghệ thuật...”. Kiều Hưng im lặng khá lâu.

img
Kiều Hưng
“Có một lần, tôi không nhớ chính xác năm nào, nhà tôi đề nghị với Bộ Văn hoá giúp đỡ tôi trở về VN và được chấp nhận. Sau đó ĐSQ Việt Nam tại Đức cho gọi tôi lên, hỏi: “Nghe anh có nguyện vọng hồi hương, bây giờ anh còn muốn trở về không?”.

Tôi mừng quá, đáp có, có, có! Mọi thủ tục khai báo đã hoàn thành. Chỉ còn việc ĐSQ yêu cầu tôi nộp lại quyển hộ chiếu gốc (đã hết hạn) do VN cấp, nay phía Đức đang giữ.

Tôi khấp khởi đến Sở Ngoại kiều Đức. Hồi đó ai mà xin về thì phía Đức họ ký cả mười tay. Nhưng rủi thay cho tôi đúng thời điểm ấy Chính phủ Đức vừa ký với ta hiệp định đưa 40 nghìn người VN tị nạn về nước.

Người ta giải thích, hiệp định này vẫn còn chưa được cơ quan chức năng Liên bang thảo luận và thông qua nên phải chờ, chưa thể trả hộ chiếu cho tôi được. Chờ mãi, thế rồi quá mất hạn, tôi lại bị lỡ một cơ hội vô cùng đáng tiếc đối với cá nhân tôi. Giá như lúc ấy tôi được linh động cấp giấy thông hành hay hộ chiếu mới thì đã có thể trở về rồi”.

“Hỏi ông một câu thẳng thắn nhé: Tị nạn ở Đức, ông làm gì?”.

“Anh hỏi thẳng, thì tôi cũng xin nói thật: Tôi không vào hội hè, đảng phái, không hát những bài hát chính trị, không phát biểu, tuyên bố gì. Ở trại tị nạn được khoảng 4 - 5 tháng, người ta phân tôi về thành phố Landshut, cách Munich khoảng 70 - 80km.

Tôi làm ở nhà máy bánh kẹo Brand, chuyên sản xuất kẹo sôcôla. Thỉnh thoảng có nơi nào mời thì tôi lại đi hát dân ca. Mình không có tiền, đâu thuê thì hát thôi... Sau có người khuyên tôi nên xin về miền Bắc nước Đức, ở đấy nhà rộng, giá cả sinh hoạt rẻ, công việc cũng nhiều. Tôi nghe theo và đến ở Hannover từ đó đến giờ”.

“Có tin đồn anh từng cộng tác với một số tổ chức Tin lành và nhà chùa ở Đức ?”.

“Chính tôi cũng từng nghe đồn mình đã tham gia biểu tình, cầm cờ nguỵ, xé cờ ta v.v... nữa. Những tin đồn này có thể do người ta hiểu lầm mình, hoặc vu cáo mình, tôi xin bác bỏ tất cả. Bản thân tôi rất mong được gặp các cơ quan hữu trách, được điều tra để làm sáng tỏ mọi sự việc... về tôi”.

“Thực hư việc này thế nào?”.

“Năm ấy có một ca sĩ mà tôi không tiện nêu tên... Nhưng thôi, đã thống nhất từ đầu là nói thật thì thật luôn cũng được. Ca sĩ Ái Thanh đang định cư ở Đức, đến Hannover để quy y tại chùa Viên Giác.

Nhân dịp Tết, cô rủ tôi lên chùa hát dân ca cho phật tử nghe. Ngôi chùa này tôi đã biết từ trước, do một Việt kiều xây, khá lớn. Trong chùa treo cờ Phật nhưng cũng treo cả cờ ba sọc.

Tuy là nhà chùa nhưng bên ngoài bán đồ lưu niệm, hàng hoá VN... lại bán cả trứng vịt lộn và thịt nữa! Năm mới, khách thập phương đến, ông sư trụ trì còn mừng tuổi mỗi người 1 đô... Mình sống yên phận, lại luôn nghĩ đến ngày trở về nên không muốn đi. Nhưng Ái Thanh nói, anh Hưng ơi, ngày Tết có tới hàng nghìn người Việt đến đây, chủ yếu là người miền Bắc, mình hát dân ca cho đồng bào mình nghe, có sao. Nghe nói thế, tôi đồng ý.

Hát xong, sư trụ trì mời chúng tôi ăn cơm chay, nhân đó nhờ tôi tự chọn, hát, thâu một đĩa nhạc cho nhà chùa. Chi phí do ông chịu. Vì tôi đi hát nhiều nên cũng tập tọng sáng tác, nay có người thuê, nội dung đĩa nhạc do mình chủ động, nên tôi nhận lời.

Trong đĩa đó, tôi thu âm những bài như Lời của gió, Cô hái hoa tươi, Nhớ quê (của tôi sáng tác)... Vì là người lưu lạc nên tôi thu thêm bài “Xa quê hương” của Shuman, lời Việt do nhạc sĩ Tô Vũ dịch, đại ý bây giờ mình ở xa quê, khi trở về thì cha mẹ đã khuất núi rồi, không ai còn nhớ ta nữa, nhưng dù thế nào thì ta vẫn yêu quê hương, xứ sở của mình.v.v... lời rất hay và xúc động, như nói hộ lòng mình.

Ngoài ra còn có một bài hát tôi đặt lời theo điệu dân ca “Lên chùa”: Xuân về nở rộ ngàn hoa/Xuân vui mọi nhà, xuân đến khắp nơi/Em có đi hái lộc cùng tôi, lễ Phật cùng tôi/Lên chùa Viên Giác, sáng trưng ánh đèn v.v...

Tóm lại đây là một đĩa hát bách hoá tổng hợp. Tương tự như vậy, khi có một nhà thờ nhờ, tôi cũng đặt lời cho họ trên nền nhạc một bài hát (...) của nhạc sĩ Nguyễn Đức Toàn: "Từ ngày con tin Chúa đến nay/Sức sống con lớn lên từng ngày/Người đã dạy phải sống bình an, chớ có tham lam gây nên tội v.v... Chuyện chỉ có thế thôi, thẩm tra rất dễ vì những cái đĩa ấy vẫn còn”.

“Tôi cũng từng một lần hát dân ca ở Paris by Night, từng sang Mỹ hát chung với ái Vân nhạc cảnh Thằng Bờm của Phạm Duy”. “Người ta sống ở đâu thì cũng có người yêu, kẻ ghét. Tuổi đời vốn ngắn, tuổi nghệ thuật còn ngắn hơn nữa.

img
Kiều Hưng hát “Tình ca” - ảnh Nguyễn Đình Toán

Năm nay đã gần 70, cuối đời vẫn còn một chút khả năng, tôi mong được trở về quê hương để thực hiện 3 nguyện vọng:

1. Hát lại và thu âm một số bài dân ca và ca khúc cách mạng mà mình đã từng thể hiện thành công trước kia

2. Có thời gian thanh thản để tập trung vào sáng tác, ra album cá nhân. (Về nước lần này, Kiều Hưng đã đến Trung tâm bản quyền âm nhạc đăng ký hơn một chục ca khúc mới của mình)

3. Nếu được chấp nhận, tôi muốn đi dạy để truyền lại một số kinh nghiệm và sở học của mình cho lớp trẻ”.

“Ông có yêu cầu cụ thể gì cho mình không?”.

“Là người sắp quá “đát” rồi, tôi cũng không dám yêu cầu gì nhiều. Nếu ở nhà thấy nên, thì giang tay đón tôi về và có sự nhìn nhận thoả đáng với những đóng góp của tôi trong quá khứ”.

“Hiện ông cần những thủ tục gì? Vướng mắc ở đâu?”.

“Thật ra đến giờ tôi vẫn không biết mình cần phải làm gì, ở đâu, với ai? Những người tôi gặp, đều nói việc về của Kiều Hưng rất đơn giản. Thế nhưng đến nay việc đơn giản ấy vẫn dậm chân tại chỗ...

Thôi thì thủ tục gì, cũng xin làm giúp nhanh nhanh lên một chút. Đời người ca sĩ hữu hạn, nếu về mà không còn hát được nữa thì việc trở về cũng chẳng còn ý nghĩa”.

Câu chuyện về cuộc đời lưu lạc của Kiều Hưng qua những mảnh ghép có thể tạm kết thúc ở đây. Trong phần đời lưu lạc của mình, không thể nói Kiều Hưng không có lỗi. Có một chút tự do chủ nghĩa. Có một chút buông thả. Có một chút thiếu cân nhắc, nấn ná, cảm tính trong hành xử.

Sự lơ đãng nghệ sĩ đã khiến ông vướng vào những rắc rối do chính ông tạo ra. Vân vân và vân vân... Chỉ có nguyện vọng xem ra không lấy gì cao xa của ông là vẫn còn tiếp tục.

Tôi hỏi ông Tôn Thất Triêm: “Ông chơi với Kiều Hưng đã mấy chục năm. Ông thấy việc này nên thế nào?” - “Tôi rất tâm đắc với ý của nhạc sĩ Nguyễn Đình Phúc: “Những nghệ sĩ tài năng là vốn quý của đất nước”. Không dễ mà có đâu.

Đặng Thái Sơn thì phải hàng trăm năm mới có. Kiều Hưng, Tôn Nữ Nguyệt Minh... (tôi chỉ nói những người mình biết) thì phải hàng chục, thậm chí vài chục năm mới lại có.

Kiều Hưng nắm rất vững kỹ thuật thanh nhạc của phương Tây và lại có cả một kho tàng dân ca Việt Nam sẵn trong người. Bỏ phí đi thì quá tiếc”.

Ông Triêm nói tiếp: “Tôi kể anh nghe chuyện này. Cách đây mấy chục năm, hồi ấy đa số còn đi xe đạp. Nghe tin có thương binh mới về nằm ở Viện 103, Kiều Hưng, Mạnh Hùng (PV báo Quân đội Nhân dân) và tôi lóc cóc đạp xe vào Hà Đông.

Cả buổi hôm ấy, tôi đệm đàn, Kiều Hưng đi giữa các giường bệnh hát cho thương binh nghe. Tự nguyện hát xong, rồi lặng lẽ trở về. Có anh thương binh tên Phúc (nghe nói sau này hy sinh) mới tập sáng tác, đưa một tệp bài hát nhờ Kiều Hưng xem hộ.

Tưởng nhờ vu vơ, nhận xã giao vậy thôi, thế mà Kiều Hưng đã vẫn tập, hát và thu thanh cho anh Phúc 3, 4 bài. Ấy là người có tâm. Cứ như tôi nghĩ thì nhờ tâm mà Kiều Hưng giữ được giọng hát lâu thế”.

Điểm mạnh và có lẽ cũng là điểm yếu của Kiều Hưng, đó là ông có thể làm tất cả, miễn mình được hát. Nếu được hát, ông sẵn sàng bỏ ngoài tai những lời dị nghị, đàm tiếu, sự phân biệt chiếu trên, chiếu dưới vốn khá nặng nề trong giới nghệ sĩ.

img
Gia đình Kiều Hưng và Tôn Thất Triêm gặp lại nhau tại Hà Nội

Những ngày về thăm quê hương, thứ Bảy hàng tuần, ông đều đặn đến hát ở... Legend Beer trên phố Vũ Ngọc Phan.

“Hát quán bia, ông không sợ bị mất giá ư ?” - “Đấy là một quán bia Đức. Tôi đến hát dân ca Đức và dân ca VN. Có hôm hát xong, khách uống bia thích quá xúm lại, công kênh tôi tung lên giời. Vui.

Phục vụ thính giả thì ở đâu chẳng là phục vụ. Hơn nữa, về nước mình cũng ít có cơ hội được hát”. Tôi trộm nghĩ, một ông lão bảy mươi mà khi nói đến chuyện hát vẫn hồn nhiên như ca sĩ mới vào nghề!

Những đêm diễn cùng trẻ khiếm thị ở KS Melia và Hanoi Opera, tiền thù lao, Kiều Hưng đều nhờ ông Triêm chuyển cho các em học sinh trường mù Nguyễn Đình Chiểu. Việc làm này ông thực hiện một cách lặng lẽ, khi ông trở lại Đức rồi tôi mới nghe kể. Vì vậy không thể nói ông vì danh, lại càng không thể nói vì tiền.

Tôi hỏi Kiều Hưng: “Khi hát song ca, cặp đôi với ai ông thấy hợp nhất?” - “Tôi có may mắn được hát đôi với nhiều ca sĩ giỏi như Thanh Huyền, Thu Hiền, Mai Lan, Thanh Hoa... thời gian sau này là Xuân Thanh. Nhưng ăn ý nhất vẫn là người bạn Thu Hiền của tôi”.

“Bài đơn ca nào ông cho là mình hát thành công nhất?” - “Tham tiền thì có nhiều người tham, tôi không dám tranh. Nhưng riêng hát thì tôi tham lắm. Nếu phải gọi ra một bài đỉnh cao thì tôi chưa biết là bài nào?”.

“Ông có nghĩ rằng mình thiếu khiêm tốn?” - Tôi hỏi đùa. Kiều Hưng cũng cười : “Không. Vì anh hỏi thực, nên tôi cũng nói thực” - “Thôi được, ông có nghe lớp ca sĩ trẻ hát dòng nhạc dân ca hiện nay không? Ông thấy bộ ba Đăng Dương, Việt Hoàn, Trọng Tấn thế nào ?”.

“Nhớ hôm khai mạc SEA Games 22, dù chỉ được xem lại qua băng video nhưng tôi rất thích nghe Trọng Tấn hát bài Việt Nam, quê hương tôi của nhạc sĩ Đỗ Nhuận. Các em bây giờ đã đủ lông, đủ cánh. Kỹ thuật cũng không đến nỗi xoàng. Tôi chỉ muốn nói thêm với các em rằng, học một bài hát, ngoài giai điệu, tình cảm, hồn vía, còn cần phải đặc biệt chú ý phần phát âm tiếng... Việt. Và đừng quên học thêm ở dân ca. Có bột thì mới gột nên hồ được!”.

Có lẽ tôi chỉ là một trong số nhiều người hâm mộ thi thoảng tự hỏi: “Cái ông Kiều Hưng ngày ấy bây giờ ra sao, ở đâu, làm gì mà lại lặn một hơi biệt vô tăm tích như vậy?” Và phải đến gần đây mới được biết về phần đời lưu lạc gian truân, thú vị nhưng cũng thật rắc rối của ông.

Đặt mình vào hoàn cảnh của ông và đất nước cách đây gần 20 năm, chắc chúng ta sẽ phần nào hiểu và thông cảm với những quyết định của ông khi ấy. Trong không khí cởi mở hiện nay, chúng ta đã mở vòng tay với những đứa con lầm lạc thì có lẽ cũng sẽ rộng lượng với những người con lưu lạc.

Tài năng bao giờ cũng hiếm. Tài năng nghệ thuật lại càng mong manh. Chính vì thế mà nó mới quý giá. Tiếc cho một tài năng vẫn còn có lửa, thương cho một số phận tha hương đau đáu ngày về, người viết bài này kể lại cuộc đời của ca sĩ Kiều Hưng là mong những người có trách nhiệm xem xét, tạo điều kiện để ông có thể thoát khỏi nỗi buồn Shuman, trở về nước. Và còn vì cả người hâm mộ sẽ có cơ hội nghe và xem Kiều Hưng diễn, bởi vì giọng hát của ông qua bấy nhiêu năm hầu như vẫn không hề suy suyển.

Tôi nghĩ về một đêm nhạc kinh điển có nhiều thế hệ ca sĩ như Trung Kiên, Kiều Hưng, Thu Hiền, Thanh Hoa,... bên cạnh Đăng Dương, Trọng Tấn, Việt Hoàn, Cẩm Vân, Thái Bảo,... biểu diễn những bài ca lẫy lừng một thuở, có sức lay động hàng triệu con tim của những người thuộc nhiều thế hệ.

Cách đây không lâu, ở bên Đức, xem qua chương trình VTV4, biết tin Bộ Ngoại giao mới trao quyết định hồi hương chính thức cho nhạc sĩ Phạm Duy, Kiều Hưng đã hào hứng “meo” ngay cho tôi: “Anh hy vọng ngày đó với mình cũng sắp đến gần!”.

Và có cả tôi hy vọng.