Showing posts with label tranhluận. Show all posts
Showing posts with label tranhluận. Show all posts

Tuesday, 20 May 2008

Hà Nội & Hà Tây trước giờ bấm nút (May 21, 2008)



img

(Tháp Rối nước- Chùa Thầy- Quốc Oai- Hà Tây)

Hà nội- another megacity?

img

img

(không ảnh Mexico Megacity)

img

img

img

img

img

img

img

img

img

img

img

img

img

img

img

img

Hội trường Ba Đình đã thuộc về dĩ vãng

img

Chùa Hương- Hà Tây

Wednesday, 27 February 2008

Nghề hấp dẫn giới trẻ (February 28, 2008)



Công chức ngoại giao: Hấp dẫn giới trẻ

Gia nhập WTO, trở thành thành viên không thường trực HĐBA Liên hợp quốc... hình ảnh Việt Nam càng trở nên nổi bật trong mắt bạn bè quốc tế và có nhiều bạn trẻ lựa chọn ngoại giao làm sự nghiệp.

img
Lễ trao bằng cho các sinh viên - Ảnh minh họa
Kỳ thi tuyển công chức vào Bộ Ngoại giao năm 2007, tiêu chuẩn đầu tiên đối với thí sinh dự thi là tuổi đời không quá 40.

Ông Phạm Sanh Châu, Vụ trưởng Vụ Văn hóa - UNESCO Bộ Ngoại giao có niềm tin mãnh liệt vào đội ngũ công chức ngoại giao trẻ tuổi thuộc thế hệ 7X, 8X.

"Họ rất giỏi, năng động và tràn đầy nhiệt huyết với công việc. Tôi hoàn toàn tin tưởng vào các cán bộ trẻ hiện nay", ông nhận xét.

30% - 50% là người trẻ

Tốt nghiệp Đại học Ngoại thương, anh Phạm Hùng Tâm nộp hồ sơ dự thi tuyển công chức Bộ Ngoại giao. Thi đỗ, anh được phân về Vụ Châu Á II và công tác ở đó đến nay đã được 14 năm.

Anh Tâm đánh giá: "Các cán bộ trẻ được đào tạo bài bản hơn, kiến thức cập nhật hơn và trình độ ngoại ngữ cũng cao hơn so với lớp cán bộ kỳ cựu. Họ tiếp thu, thích ứng nhanh với công việc và rất đoàn kết, giúp đỡ nhau cùng tiến bộ. Làm việc với họ đã giúp tôi có những cách nghĩ mới, buộc tôi phải tự phấn đấu để theo kịp họ".

Hiện tỷ lệ cán bộ trẻ từ 40 tuổi trở xuống đang ngày càng tăng trong cơ cấu cán bộ của Bộ Ngoại giao. Vụ Châu Mỹ có 40 cán bộ công chức thì hơn 1/3 trong số đó là những cán bộ trẻ.

Ở Cục Lãnh sự, tỷ lệ cán bộ trẻ cũng là hơn 1/3 và hứa hẹn sẽ tiếp tục tăng trong những năm tới. Vụ Châu Á II có trên dưới 50 cán bộ thì hơn 50% trong số đó là những người trẻ.

Cũng như ở các ngành nghề khác trong xã hội, những cán bộ ngoại giao trẻ mới vào nghề không tránh khỏi bỡ ngỡ khi làm quen với công việc. Những chuyên viên tốt nghiệp Học viện Quan hệ quốc tế có lợi thế là được đào tạo cơ bản về quan hệ quốc tế và nghiệp vụ ngoại giao nên hoà nhập nhanh hơn vào môi trường đối ngoại cấp nhà nước.

Tuy nhiên, công tác ngoại giao đa dạng, phong phú với rất nhiều công việc không tên và có tên nên để đảm bảo hiệu quả hoạt động, ngay sau khi kết thúc kỳ thi tuyển công chức, Bộ Ngoại giao tổ chức một khoá bồi dưỡng nghiệp vụ ngắn hạn kéo dài 2 tháng dành cho các thí sinh trúng tuyển.

Nhiều cơ hội trưởng thành

Trải qua một thời gian công tác, nhiều cán bộ ngoại giao trẻ đã tìm thấy cho mình sự hứng thú đối với công việc và một môi trường phát huy những kiến thức đã được học. Họ lựa chọn con đường ngoại giao trước hết xuất phát từ sự đam mê và cảm thấy công việc phù hợp với mình.

Anh Nguyễn Đức Tiến, đỗ kỳ thi tuyển công chức Bộ Ngoại giao 2006 và đang công tác tại Ban Nghiên cứu tâm sự:

"Tôi chọn ngoại giao vì cảm thấy mình phù hợp với ngành này. Môi trường nghiên cứu giúp tôi phát huy tối đa những kiến thức và khả năng của bản thân. Nói chung công tác ngoại giao khó khăn và vất vả, đòi hỏi có sự đam mê. Nếu chỉ để biết thôi thì tốt nhất đừng nên vào ngành ngoại giao làm gì".

Phạm Thùy Trang đã đỗ kỳ thi tuyển công chức Bộ Ngoại giao năm 2006 và hiện đang là chuyên viên Vụ Châu Mỹ. Sau gần một năm làm việc, Trang cho biết công việc hiện tại của cô khá tốt, gần đúng như những gì đã tưởng tưởng khi còn là sinh viên Học viện Quan hệ quốc tế.

"Làm việc ở đây, tôi có điều kiện phát huy nhiều nhất những gì mình đã được học trong trường", Trang bộc bạch.

Cùng đỗ kỳ thi tuyển công chức năm 2006 với Phạm Thùy Trang còn có Nguyễn Thị Thu Thủy. Cũng giống như Trang, Thủy khá hài lòng với công việc của một chuyên viên Vụ Châu Á II.

Thủy cho biết so với nhiều cơ quan nhà nước khác, môi trường làm việc trong Bộ Ngoại giao khá năng động, có tính cạnh tranh cao nhưng không quá căng thẳng.

Sau gần một năm làm việc, Thủy đã thu nhận được khá nhiều kiến thức cũng như kinh nghiệm cần thiết để trở thành một nhà ngoại giao trong tương lai.

Nguyễn Tiến Cường cũng đỗ kỳ thi tuyển công chức cùng đợt với Thuỷ và Trang và đang công tác tại Học viện Quan hệ quốc tế. Cường cho biết anh rất thích công việc hiện nay vì được làm đúng ngành đúng nghề.

Anh cũng không giấu mơ ước được theo đuổi nghiệp ngoại giao: "Được tham gia các hoạt động đối ngoại đã giúp tôi trưởng thành lên rất nhiều. Tôi mong muốn sẽ tiếp tục được cống hiến cho ngành ngoại giao".

Còn anh Tâm tâm sự: "Kể từ khi trở thành công chức ngoại giao, tôi đã thu nhận được nhiều kiến thức về nghiệp vụ, học được phương pháp phân tích vấn đề, trình độ ngoại ngữ ngày càng nâng cao và đi đây đi đó. Sau 14 năm gắn bó, tôi càng yêu công việc của mình".

Theo Minh Dương
Lao động

Wednesday, 16 January 2008

"Văn hóa" bạo lực? (January 16, 2008)

Tớ hiếm khi được xem thời sự 19h trực tiếp của VTV vì lúc đó đang là giờ làm việc, nhưng hôm qua lại mục kích được đúng cái phóng sự đó. Phóng sự khá dài, tua lại rất nhiều lần những hình ảnh không thể man rợ hơn được nữa, không ai có thể cầm lòng được. tớ đã loan tin ngay lúc đó trên blast!!! Mà không chỉ có con mụ béo “quỷ đội lốt người” kia oánh, chửi các cháu đâu. Tớ thấy một con mụ trẻ hơn cũng oánh, tát, mắng, chửi các bé. Có cả một thằng ôn mặt hầm hầm lườm các cháu, nhìn các bé như kẻ thù không đội trời chung. Hình như khẩu hiệu của bọn quỷ này là "tiêu diệt mầm non của đất nước"!!! Tội này đáng phải tùng xẻo.

Nghĩ mà buồn. Lại còn cả tin nổ mỏ khai thác than, rồi tin đá tiếp tục đè chết người. Trong lúc đó ở Mỹ lại có tin một ông bố Việt kiều ném bốn đưa con đẻ của mình xuống biển. Kinh tởm! Sao lại có thể tệ hại đến như thế. Sao bức tranh lại xám xịt đến thế!

Nhưng nghĩ đi nghĩ lại thì cũng thấy việc báo chí đưa tin và đưa dồn dập như thế này cũng là tín hiệu mừng. Dư luận và báo chí rõ ràng đang cố gắng vào cuộc và nói không với bạo hành, với việc coi thường nhân phẩm và tính mạng con người. Nói cho cùng thì chẳng phải bây giờ mới xảy ra bạo hành, chẳng phải bây giờ mới xảy ra tai nạn lao động. Chẳng phải bây giờ tính mạng và nhân phẩm con người mới bị coi rẻ. Hồi bé đi học tớ cũng chứng kiến không ít chuyện thầy giáo/ cô giáo véo tai, xách tai mấy cu bạn, quăng cả cái thước kẻ dài 1 mét vào học sinh, dùng phấn và rẻ lau bảng ném vào học sinh, coi đó là những biện pháp thể hiện sự nghiêm khắc!? Đồng thời cũng vài lần tớ chứng kiến học sinh chơi khăm lại các thầy cô. Cho nên, khi thấy báo chí, truyền thông đưa tin nhiều, thậm chí dồn dập về những chuyện đau lòng thì theo tớ cũng là tín hiệu mừng, rằng cái ác, cái xấu sớm muộn đều bị lôi ra ánh sáng và hy vọng sẽ bị trừng trị thích đáng.

Tớ hay nghĩ lan man. Khi xem cái phóng sự này, tớ lại liên hệ đến một đặc điểm trong “văn hóa ứng xử” của người Việt mình. Triết học của Việt Nam mình nói cho cùng là tổng hợp của những đúc kết dân gian của các cụ nhà ta. Các cụ nói thì thường là “cấm có sai”. Nhưng mà có một cái quan niệm tớ chưa bao giờ đồng ý với cổ nhân, đó là lý luận “yêu thì cho roi cho vọt, ghét thì cho ngọt cho bùi”. Có một câu chuyện mà tớ tận mắt chứng kiến. Mẹ một người bạn của tớ được mời từ Việt Nam sang bên này để trông cháu giúp vợ chồng anh bạn. Thằng cháu này thì cũng thuộc loại trẻ hiếu động. Một hôm bọn này cùng đi chơi ở vườn hoa Lục Xâm Bảo. Thấy thằng bé chạy đùa nghịch ngợm, gọi không được người bà đã cầm cái roi chạy theo và dọa vụt thằng bé. Các bạn có thể tưởng tượng các bác Tây ở xung quanh đã mắt chữ O, mồm chữ A như thế nào khi chứng kiến cảnh tượng đó không. Trời đất. Đó là cái văn hóa giáo dục trẻ em của Việt Nam mình đấy à???!!! Tớ thì thở phào khi thấy cuối cùng những người Tây kia không đi gọi cảnh sát tới bắt người bà Việt Nam kia vào đồn, can tội bạo hành với trẻ em.

Mở ngoặc thêm một chút. Trong một lần bọn tớ làm hội thảo quốc gia về Văn hóa hòa bình và phi bạo lực vì trẻ em trên thế giới ở Hà Nội, Giáo sư Tô Ngọc Thanh cũng nói rất mạnh về cái văn hóa “yêu cho roi cho vọt” của người Việt. Giáo sư nhấn rất mạnh là ở Việt Nam đó là “văn hóa” khá đặc trưng, nhưng chỉ là của người Kinh. Theo Giáo sư Thanh, hầu hết các dân tộc thiểu số ở Việt Nam đều không có văn hóa “roi vọt” như người Kinh. Đó cũng là điều đáng suy ngẫm.

Tất cả các hành vi bạo lực dù được biện minh dưới bất kỳ hình thức nào (trừ bạo lực cách mạng, hehe) đều không thể chấp nhận được và cần phải loại bỏ. Bạo lực, roi vọt chính là đặc điểm man rợ, thú tính còn sót lại ở con người. Liên hợp quốc đã có cả một công ước về xóa bỏ mọi hình thức bạo lực. Liên hợp quốc cũng đã có nhiều nghị quyết về văn hóa hòa bình và có cả Năm quốc tế, rồi Thập kỷ quốc tế về Văn hóa hòa bình và phi bạo lực vì trẻ em trên thế giới… Nhưng xem ra tất cả vẫn chỉ dừng lại ở hô hào, lý luận. Chừng nào văn hóa hòa bình và phi bạo lực chưa trở thành thuộc tính của con người và đủ mạnh để làm tiêu giảm thuộc tính “con” man rợ của con người thì bạo lực phi nghĩa và bạo hành sẽ còn tồn tại dai dẳng.

Friday, 16 November 2007

TỪ VỰNG (November 17, 2007)

I do not contradict the critical importance of vocabulary in doing translation or practicing any skill of a foreign language. But I strongly believe that a good vocabulary does not have much to do with "quantity", i.e. the number of words/expressions/phrases that one has come across and put down in his/her notebook over time. It is the quality of his/her vocabulary that counts more. By "quality" I mean a true command of the words and expressions and their usage.

If there happen to be those words or phrases that are too slippery for someone to grasp or that suddenly jump out of his/her memory, it may well be because when picking up those vocabulary items s/he was not given adequate contextual aids which are conducive for an easy memorization and/or for an effective usage later on. There are also situations in which one may be trying to memorize words and expressions without being aware that they are rarely used or even have fallen into disuse.

Remember, words and phrases, especially those with literal or technical meanings, once divorced from their contextual meanings, can backfire very seriously. So, as a regular user of a foreign language, one should not regret too much if s/he happen to forget some words. As long as one can still communicate effectively with his/her interlocutor, and/or respond quickly in simultaneous translation, by using a simple and commonly-used vocabulary, s/he has every reason to be confident in his/her command of the language involved.