Showing posts with label quanđiểm. Show all posts
Showing posts with label quanđiểm. Show all posts

Thursday, 12 March 2009

Đến cao nguyên người ở đừng về (March 13, 2009)



1. Tháng Ba Tây Nguyên. Sáng tác nhạc của Văn Thắng. Lời thơ của Thân Như Thơ. Nghệ sỹ Nhân dân Tường Vy song ca cùng Nghệ sỹ Trọng Hinh.

2. Tình ca Tây Nguyên- Sáng tác: Hoàng Vân. Nghệ sỹ ưu tú Tiến Thành hát cùng tốp nữ Đoàn ca nhạc Đài Tiếng nói Việt Nam năm 1978.

3. Nghe câu Quan họ trên Cao nguyên. Sáng tác: Vũ Thiết. Nghệ sỹ Quỳnh Liên (Cán bộ Đại học Sư phạm Hà Nội) hát cùng Dàn nhạc Đài Tiếng nói Việt Nam năm 1983.

4. Ngọn lửa Cao nguyên. Sáng tác: Trần Tiến. Ca sỹ Bách Thảo (Đoàn ca múa Hải Đăng- Phú Khánh) hát cùng giọng bè của ca sỹ Thanh Nam (Hải Đăng).

Tuesday, 16 September 2008

"Đạp đổ" Hà Trần September 17, 2008



Bạn Hiếu , một "thầy giáo của các ca sỹ" (đúng nghĩa đen luôn) viết một bài rất hoành tráng về Album Trần Tiến- Hà Trần và nhất là về Hà Trần.Tớ thấy thế này:

Nói thật là tớ rất muốn tìm cách "đạp đổ" (đây là từ mà Hà Trần dùng- « đạp đổ thần tượng ») cái Album này của Hà Trần chỉ vì tớ thấy cô ý tỏ ra khá lấc cấc và chỏng lỏn trong nói năng khi trả lời trực tuyến trên Netlife. Với lại tớ vẫn khó có thiện cảm với các em đã xấu gái lại còn cá tính, vốn chỉ có thể lấy chồng là tây hoặc việt kiều =)) Mô phật, thiện tai ! Tuy nhiên tớ đã nghe hết cái Album này và thấy không nên cả giận mất ... khách quan. Xét tổng thể, Album nghe được, và cũng là sản phẩm hiếm trong tình hình nhạc nhẹ nước nhà hiện nay (cả trong nước và hải ngoại). Bố cục bài vở hay. Chân dung Trần Tiến được khắc họa đẹp, rõ nét dù không cần phải có Giai điệu Tổ quốc, Cây đàn đất nước hay thậm chí Những đôi mắt mang hình viên đạn. Tớ khuyên mọi người nên tìm nghe và mua đĩa thật J

Bài viết của Hiếu rất lucid. Hiếu vẫn có khả năng ngôn ngữ hóa các sắc thái cảm xúc, cảm thụ. Có cả một bồ từ vựng tiếng Việt mà tớ thu được sau khi đọc bài này. Bài viết của Hiếu nếu được phổ biến chắc sẽ có tác động định hướng ghê gớm tới người nghe Album này, có khi còn tạo ra một cơn sốt cũng nên. Tớ thấy may vì đã kịp nghe và tự cảm nhận Album này trước khi đọc bài của Hiếu. Nói đến đây tớ liên tưởng rằng thơ văn từ xưa đến nay lên cơn sốt thành các hit và best-seller hay sống được với thời gian phần nhiều nhờ vào sự tung hứng của giới phê bình, kiểu như Thơ Mới sống được, thậm chí được tôn thờ phần nhiều nhờ những người như Hoài Thanh- Hoài Chân J.

Nói như thế, tớ muốn nói tới cảm giác của tớ rằng sự ưu ái của Hiếu hơi hào phóng quá đối với Hà Trần và Album này của cô ấy. Thôi thì tạm gạt Tùng Dương và Hòa T.T sang một bên, chỉ nghe Hà Trần trong Album này thì sẽ thấy Hà Trần cũng đã trở nên « tròn trịa » và « cũ kỹ » như cách Hiếu nói về Mỹ Linh và Thanh Lam hiện nay. Thế này nhé, cách hát của Hà chứ gì, vẫn là lối hát dùng kỹ thuật, kỹ xảo để che lấp (theo cách hiểu tích cực) hạn chế về quãng yếu, về chất giọng mảnh trong giọng hát bẩm sinh của Hà. Lúc cô ấy tìm ra được cách hát này như trong Dệt tầm gai, Hoa gạo thì đó là sự thông minh, sự tự khám phá, đồng thời cũng là một khám mới trong nhạc nhẹ Việt Nam, nhờ đó Hà Trần được mặc định là Diva thứ 4 của nhạc Việt sau Lam, Nhung, Linh hoặc theo một trật tự thay đổi tí chút.

Nhưng theo gout của tớ thì ca sỹ, nhất là Diva trước khi có sự « thông minh », có khả năng xử lý sắc thái thì phải là người có tố chất bẩm sinh về quãng giọng, chất giọng, làn hơi để rồi từ đó họ có thể tạm giấu các tố chất trời cho đó vào sâu bên trong để chuyển sang phô diễn kỹ thuật, kỹ xảo, trí thông minh trong tạo nuance, nhưng rồi vẫn có lúc phải lôi được cái của trời cho của mình ra để khoe thiên hạ. Như thế mới đã. Và kiểu như thế tớ thì tớ chỉ thấy chị « Lam điên » mới xứng đáng với sự hào phóng ngôn ngữ trên của Hiếu, hehe. Còn như Hà Trần, cô ấy thông minh, nhưng vì cô ấy bẩm sinh không có quãng giọng rộng và vang như Céline Dion, không trường hơi như Mỹ Linh, không đầy đặn, căng tròn và bùng nổ như Thanh Lam nên nhiều khi cô ấy lâm vào cảnh « lực bất tòng tâm » như cách cô ấy đã hát « Cô đơn » của Nguyễn Ánh 9 trong DVD Thúy Nga. Thú thật, vẫn theo gout của tớ, cô ấy chỉ có thể hát điểm trong các CD tổng hợp nhiều ca sỹ, chứ mà nghe cả CD của Hà Trần thì monotone chết được mặc dù tớ cũng biết là Hà Trần cũng ý thức được điều đó nên mới cố gắng chú trọng vào các bản phối, cố gắng pha màu bằng các bản phối, khi thì có background, không có background, khi thì unplugged, khi thì điện tử.

Còn nói về hòa âm bằng nhạc unplugged hay nhạc điện tử thì CD này đâu có khác gì 98-03 hay Đối thoại 06. Đây nhé, Vận đổi sao dời hay Nhăng nhố thì vẫn là kiểu Hoa gạo. Còn Ra ngõ tụng kinh thì là kiểu phối của Mưa bay tháp cổ hay Nước Sâu. Mà nước sâu và Mưa bay tháp cổ đã là đỉnh cao của Hà Trần rồi thì chắc chắn mấy cái này sẽ chỉ còn là nối dài thành công, là níu kéo, chạy theo thời hoàng kim hay nói cho vui là thấy bở thì đào mãi. Mà đào mãi thì nhàm quá. Cũng may là ca khúc Trần Tiến hay quá, nhạc hay đã đành, triết lý trong lời bài hát vừa sâu sắc lại vừa không phải là cái gì cao siêu, xa lạ. Hay nói như Hiếu, ca từ của ông này nghe « gai người", « bụi bặm », « suồng sã » nhưng không dung tục. Một cái may nữa là có một số bài hát cũ được dùng để điểm xuyết cho Album và đặc biệt là cách dàn dựng bài, hòa âm và phần thể hiện cả ba ca sỹ Hà Trần, Tùng Dương và Hòa T.T có sự đầu tư kỹ lưỡng nên Album trở nên sinh động hơn so với khi phải nghe giọng hát của một mình Hà Trần từ đầu đến cuối. Cuối cùng thì phải chê cách Tùng Dương hát Điệp khúc tình yêu là hơi « nhảm », hát Độc huyền cầm quá lạm dụng kiểu ma quái. Khen Hòa T.T hát Phố núi khéo. Khen Hà Trần và Hòa Trần hát liên khúc Chị tôi & Lá diêu bông hay và phần dàn dựng kỳ công. Khen cái suồng sã và có chất nghệ sỹ của David Tran (là ai nhỉ) hát Mặt trời bé con.

Bonus: Link download Trần trụi 87

Tuesday, 20 May 2008

Hà Nội & Hà Tây trước giờ bấm nút (May 21, 2008)



img

(Tháp Rối nước- Chùa Thầy- Quốc Oai- Hà Tây)

Hà nội- another megacity?

img

img

(không ảnh Mexico Megacity)

img

img

img

img

img

img

img

img

img

img

img

img

img

img

img

img

Hội trường Ba Đình đã thuộc về dĩ vãng

img

Chùa Hương- Hà Tây

Sunday, 18 May 2008

Giai điệu tháng 5 (May 19, 2008)



Nhân dịp sinh nhật 118 của Hồ Chủ tịch, nghe tiếp những giai điệu "Còn lại với thời gian":

1. Giai điệu tháng 5- Bài hát do nhạc sỹ Hoàng Vân sáng tác vào năm 1990 nhân dịp kỷ niệm sinh nhật lần thứ 100 của Hồ Chủ tịch. Trình bay: Dàn nhạc và Hợp xướng Đài TNVN, các NSƯT Thúy Lan và Phan Muôn lĩnh xướng.

2. Hồ Chí Minh giai điệu 4 mùa- Bài hát nằm trong Tổ khúc Dáng đỏ Việt Nam của các nhạc sỹ Trần Chung, Cát Vận và Vũ Thanh. Nghệ sỹ Tiến Thành hát cùng tốp nữ vocals và Dàn nhạc Đài Tiếng nói Việt Nam (tháng 5/1982)

***

Thursday, 15 May 2008

Vietnam's quest for role models (May 15, 2008)



Trong loạt bài giới thiệu về Việt Nam đăng trong số tháng 4/2008 của tạp chí The Economist, bài viết dưới đây có thể được đánh giá là một cái nhìn khái quát, súc tích và thú vị về Việt Nam. Bằng những đúc kết từ kinh nghiệm thực tế đã và đang diễn ra ở Việt Nam, thông qua những ẩn dụ và so sánh đơn giản nhưng thuyết phục, bài báo thể hiện một cái nhìn tích cực về một Việt Nam đang cố gắng vươn lên mà không hề gây ra cảm giác về một bài báo PR theo đơn đặt hàng, và lại càng khác so với thể loại báo chí cổ động, tuyên truyền thường thấy. Có lẽ thú vị nhất là sự liên tưởng của tác giả giữa Đạo Cao Đài ở miền Nam Việt Nam với chính sách đối ngoại của Việt Nam, cũng như các lập luận mà tác giả sử dụng để phân biệt Việt Nam với Trung Quốc.
.
***
Dưới đây là bản dịch sang tiếng Việt của Thông tấn xã Việt Nam. Bản dịch này khá sát với bản gốc, tuy cần cải thiện thêm một vài chi tiết nhỏ. Ví dụ, một câu rất đắt trong bài là "Cao Dai's sunny, ecumenical message chimes well with Vietnam's foreign policy of seeking “friends everywhere”" đã được dịch hết sức đại khái và mờ nhạt. Nó nên được dịch là thông điệp lạc quan, mang tính đoàn kết giữa các tôn giáo và tín ngưỡng của Cao Đài rất phù hợp với chính sách đối ngoại "làm bạn với tất cả" của Việt Nam. Hay như, "emulate Deng Xiaoping's market socialism" phải hiểu là "bắt chước", "học tập", hoặc "sao chép"... chứ không phải là ganh đua. Hoặc người dịch lược cụm từ "pursued half-heartedly" trong câu "Vietnam had a two-child policy, pursued half-heartedly", khiến cho câu tiếng Việt trở nên không còn ấn tượng. Nên giữ nguyên gốc và dịch là Việt Nam có chính sách mỗi gia đình có hai con, nhưng chỉ áp dụng nửa vời/ không toàn tâm toàn ý. Hoặc cụm từ "the Great Firewall of China" là cách chơi chữ của tác giả, nói đến tường lửa ở Trung Quốc, nhưng dùng hình ảnh liên tưởng tới một Vạn lý Trường thành trong internet...
.
Việt Nam tìm kiếm mô hình quốc tế điển hình
.
Tiếng chuông ngân lên vào giữa trưa trong một điện thờ sơn phủ sặc sỡ của giáo phái Cao Đài cách Thành phố Hồ Chí Minh 100 km, nơi hàng trăm tín đồ trong trang phục áo choàng sặc sỡ và khăn xếp lòe loẹt đang xếp hàng tiến vào. Họ ngồi xếp bằng giữa những hàng cột sơn màu hồng đắp nổi những con rồng hai mầu xanh và trắng chạm khắc tinh xảo. Khắp xung quanh họ là những biểu tượng của giáo phái này - con mắt thánh: Quang cảnh trông tựa như sự pha trộn giữa một ngôi chùa ở Trung Quốc, một thánh đường Hồi giáo và một nhà thờ Thiên chúa giáo với một chút giống như Thành phố Ngọc Lục Bảo trong câu chuyện huyền bí Wizard of Oz.

Cao Đài, một tôn giáo trong nước mang tính hòa hợp của Việt Nam, pha trộn giữa đạo Phật, đạo Lão, đạo Cơ đốc, đạo Hồi và những tôn giáo khác, giáo huấn rằng tất cả những niềm tin là sự biểu thị của "cùng một chân lý". Giáo phái này được sáng lập vào năm 1926 bởi Ngô Văn Chiêu, một công chức nhà nước. Đến những năm 40, Cao Đài đã phát triển thành một lực lượng mạnh có quân đội riêng. Giáo phái này từng ủng hộ sự chiếm đóng của Nhật Bản và đôi khi cả với chế độ thân Mỹ ở miền Nam Việt Nam, vì thế sau năm 1975 Cao Đài bị những người cộng sản kiềm chế. Đến nay, khi chính phủ xóa bỏ những hạn chế tôn giáo, Cao Đài đã quay được sự ưa chuộng trở lại mặc dù vẫn phải chịu sự kiểm soát chặt chẽ. Tháng 2/2008, các thành viên của Ủy ban Tôn giáo Chính phủ đã tham dự một buổi hành lễ cùng 200.000 tín đồ Cao Đài tại một điện thờ lớn.

Sự phát triển trở lại của đạo Cao Đài đi kèm với chính sách đối ngoại của Việt Nam mong muốn "làm bạn với tất cả các nước". Nói một cách rộng hơn, niềm tin tôn giáo phản ánh đặc điểm tinh hoa của dân tộc Việt Nam, đó là tìm kiếm những khuôn mẫu tiêu biểu, sau đó tìm cách đưa những nét nổi bật của mình vào trong những khuôn mẫu đó theo cách thức phù hợp của Việt Nam. Đặc điểm này đã xuất hiện một cách tự nhiên ở một đất nước từng bị xâm chiếm và đô hộ bởi quá nhiều thế lực ngoại bang. Hệ thống luật pháp của Việt Nam hiện nay chủ yếu dựa trên những nguyên tắc pháp lý thuộc Pháp, nhưng lại có những thay đổi để phù hợp với các mô hình của Trung Quốc và Liên Xô cũ. Khi Việt Nam còn nằm dưới sự che chở của Liên Xô trong suốt thời kỳ Chiến tranh Lạnh, họ đã bắt chước mô hình kinh tế chủ nghĩa tập thể của nước này và để lại những hậu quả thảm khốc. Tiếp theo đó, Việt Nam lại ganh đua với mô hình chủ nghĩa xã hội thị trường của Đặng Tiểu Bình. Gần đây, họ lại được thuyết phục bởi các đặc điểm trong mô hình tăng trưởng xóa đói giảm nghèo của các cơ quan Liên Hợp Quốc và Ngân hàng Thế giới cũng như các lý thuyết nền tăng của hệ thống phúc lợi xã hội ở các nước châu Âu.


Dấu ấn Trung Quốc

Những phát triển gần đây cho thấy Việt Nam đáng được xem là một Trung Quốc thu nhỏ khi mà cả hai nước đều được lãnh đạo bởi những người cộng sản tiểu tư bản hăng hái, nhưng giữa họ có sự khác biệt. Một nhà ngoại giao ở Hà Nội từng làm việc ở Bắc Kinh cho rằng "mọi thứ ở đây (Việt Nam) đều có chừng mực hơn ở Trung Quốc". Việt Nam ít thô bạo hơn đối với những người bất đồng chính kiến so với Trung Quốc và "răng nanh và móng vuốt" của chủ nghĩa tư bản ở đây cũng ít bị nhuộm đỏ hơn. Dịch vụ y tế và giáo dục đã thay đổi để thành công hơn khi chuyển đối sang kinh tế thị trường. Sự kiểm soát của Việt Nam, giống như ở Trung Quốc, chính là những hạn chế nghiêm ngặt, tuy nhiên, số lượng người sử dụng Intemet có thể truy cập vào các trang web ở nước ngoài ngày càng nhiều hơn: người sử dụng Internet Việt Nam không bị chặn bởi bức "Tường lửa khổng lồ" như ở Trung Quốc.

Trong khi Trung Quốc nằm dưới sự lãnh đạo xuyên suốt và rõ ràng của một nhà lãnh đạo tối cao - Hồ Cẩm Đào, người nắm giữ hai chức vụ Tổng Bí thư Đảng Cộng sản và Chủ tịch nước - thì Việt Nam có sự lãnh đạo tập thể. Ba trụ cột gồm Chủ tịch nước, Tổng bí thư Đảng và Thủ tướng phải đạt được sự đồng thuận cùng với vai trò ngày càng gia tăng của Quốc hội độc lập và các lực lượng quần chúng khác, đồng thời tránh làm xáo trộn nhóm anh hùng cựu chiến binh trong các cuộc chiến tranh giành độc lập của Việt Nam vẫn đang còn sống. Lãnh đạo Trung Quốc có thể ra lệnh phá hủy các dự án công trình công cộng bất chấp những hậu quả. Ngược lại, quá trình ra quyết định ở Việt Nam có vẻ như "hợp tình hợp lý hơn".

Trung Quốc áp dụng nghiêm ngặt "chính sách một con"; Việt Nam có "chính sách hai con". Trong khi dân số Trung Quốc đang già đi thì thế hệ trẻ em sinh sau chiến tranh ở Việt Nam đang bước vào độ tuổi sung sức nhất, tăng trưởng kinh tế nhanh cũng đã tạo thêm nhiều công ăn việc làm cho tất cả mọi người. Giám đốc ngân hàng HSBC tại Việt Nam, Tom Tobin nhận xét rằng trong một hoặc hai thập niên tới, trong khi đa phần dân số của thế giới già đi nhanh chóng, lớp thanh niên Việt Nam vẫn sẽ ở giai đoạn sung sức nhất trong sự nghiệp của họ.

Trung Quốc vẫn là một mô hình tiêu biểu kết hợp giữa các cải cách thị trường với tư tưởng cộng sản chủ nghĩa, cho dù đa số người Việt Nam phải miễn cưỡng thừa nhận rằng họ đang bắt chước kẻ thù ngàn năm của họ. Tuy nhiên, đảng cầm quyền Việt Nam cũng hướng tới sự giàu có của Singapore - tuy danh nghĩa là một nền dân chủ thị trường tự do nhưng thực tế là một quốc gia một đảng, nơi chính quyền vẫn kiểm soát những cấp độ chủ đạo của nền kinh tế. Ví dụ, Việt Nam đã xây dựng mô hình giống như tập đoàn Temasek - Công ty đầu tư Singapore quản lý cổ phần của nhà nước tại các doanh nghiệp bán tư nhân. Rõ ràng là Việt Nam quá lớn và quá phi tập trung hóa để có thể bắt chước mô hình của nước Singapore nhỏ bé, tuy nhiên, Đảng Cộng sản hy vọng rằng họ sẽ đúc kết được những kinh nghiệm của Đảng Hành động Nhân dân Singapore (PAP) thuyết phục cử tri tiếp tục chấp nhận vai trò lãnh đạo của họ như cái giá của sự thịnh vượng. Giống như PAP, Đảng Cộng sản Việt Nam tìm kiếm cơ hội thu hút những nhân tài và đầu tư cho các nhân sự nội bộ trong giai đoạn đầu này.

Nhận thức được giáo dục cao và cải tiến khoa học đã là những nhân tố then chốt làm nên sự giàu có của Nhật Bản, Hàn Quốc và Đài Loan, Việt Nam đang khuyến khích các tập đoàn công nghệ cao nước ngoài và mời gọi những nước giàu xây dựng các trường đại học, các cơ sở đào tạo trên đất nước họ. Một trường đại học Australia, Đại học Công nghệ Hoàng gia Melbourne (RMIT) đã mở các cơ sở đào tạo ở Thành phố Hồ Chí Minh và Hà Nội. Một trường đại học của Đức và một số trường cao đẳng công nghệ khác của Hàn Quốc cũng đang có kế hoạch thành lập. Trong khi đó, các gia đình Việt Nam, từ Thủ tướng, đang gửi con em đi học nước ngoài.

Vậy thì, nền kinh tế dung hợp của Việt Nam sẽ theo đuổi mô hình nào? Bởi vì Việt Nam đang tìm kiếm cơ hội xây dựng các tập đoàn kinh tế quốc gia mạnh, họ chưa biết chắc nên theo đuổi mô hình "keiretsu" của Nhật Bản, "chaebol' của Hàn Quốc hay mô hình các tập đoàn chuyên sâu trong một lĩnh vực kinh doanh chủ chốt kiểu Anh. Có lẽ họ sẽ cóp nhặt những gì tinh túy nhất từ những mô hình này. Nhưng, Tony Salzman, một doanh nhân người Mỹ ở Việt Nam lại lo ngại về mối đe dọa khi "râu ông nọ cắm cằm bà kia!"
***
Dưới đây là bản dịch sang tiếng Pháp của TMH. Bản dịch này lược bỏ đoạn văn đầu vì không có nội dung phân tích:

La quête des modèles au Vietnam

Le Caodaïsme (Cao-Dai en vietnamien signifie « être suprême »), religion syncrétiste qui n’existe qu’au Vietnam, mélange le Confucianisme, le Bouddhisme, le Taoïsme, le Christianisme, l’Islam et d’autres religions en enseignant que toutes les fois représentent des manifestations d’une « même vérité ». Cette religion a été établie en 1926 par un fonctionnaire vietnamien. Dans les années 1940 il était devenu une force puissante possédant sa propre armée privée. Il a appuyé l’occupation japonaise et parfois le régime proaméricain du Vietnam du Sud. Il a été, donc, réprimé par les communistes après 1975. Aujourd’hui, comme le gouvernement est moins sévère envers des religions, le caodaïsme a repris la faveur, quoiqu’il soit strictement contrôlé. En février, des responsables du comité des affaires religieuses du gouvernement ont rejoint 200 mille caodaïstes dans un rituel effectué au grande temple caodaïste, à environ 100 km de Saigon.

Le message œcuménique du caodaïsme s’accorde bien avec la politique extérieure de « chercher des amis partout » du Vietnam. Plus globalement, la foi reflète un trait fondamentalement vietnamien : chercher des modèles et puis mêler les meilleurs aspects d’un certain nombre d’entre eux dans quelque chose d’uniquement commode pour le pays.

Cela peut arriver à un pays qui a été occupé et influencé par tant de puissances étrangères. Le système juridique vietnamien se base essentiellement sur les principes napoléoniens mais avec de petits morceaux adaptés des modèles chinois et soviétiques. Lorsque le Vietnam était sous l’aile de l’Union soviétique pendant la guerre froide, il a calqué son économie sur le modèle collectiviste, ce qui a entraîné des conséquences désastreuses. Ensuite, il a émulé le socialisme de marché de Deng Xiaoping. Plus récemment, il a greffé des éléments des modèles de la croissance anti-pauvreté initiés par la Banque Mondiale et par des agences onusiennes. Le pays a également copié les rudiments d’un état de bien-être pratiqué en Europe.

Il est tentant de voir le Vietnam comme étant une mini Chine car tous les deux pays sont dirigés par des communistes ardemment capitalistes, mais il y a des différences. Un diplomate étranger qui servait à Pékin dit que « tout est plus modéré ici qu’en Chine ». Le Vietnam est un peu moins sévère envers des dissidents que la Chine et son capitalisme est moins sauvage. Ses services de la santé et de l’éducation se sont adaptés avec plus de succès à la transition à une économie de marché. Bien que la presse au Vietnam, comme en Chine, soit strictement contrôlée, les nombres croissants d’internautes au Vietnam ont l’accès à la plupart des sites web étrangers. Il n’y a pas un équivalent vietnamien pour le Grand Pare-feu de Chine.

La Chine est dirigée de haut en bas et un homme est clairement le leader suprême- Hu Jintao, qui est à la fois chef du parti communiste et président de l’Etat, tandis que le Vietnam maintient un leadership consensuel. Son triumvirat comprenant le président, le chef du parti et le premier ministre doit aboutir aux accommodations avec une assemblée nationale qui est de plus en plus indépendante et avec une foule d’autres forces, ainsi qu’éviter de fâcher de nombreux héros survivants des guerres d’indépendance du pays. Le leadership de Chine peut s’ingérer dans des projets des travaux publics quelles que soient les conséquences. Par contraste, le processus décisionnel au Vietnam peut sembler terriblement lent mais aussi plus équitable.

La Chine a strictement appliqué la politique de l’enfant unique ; le Vietnam a eu la politique de deux enfants qui a été suivie sans conviction. La population de Chine a déjà vieilli alors que les personnes du baby-boom post-guerre au Vietnam sont en train d’entrer dans leur apogée et que la croissance économique rapide a donné des emplois à eux tous. Tom Tobin, chef de HSBC au Vietnam note que dans une ou deux décennies, le moment où la plupart du reste du monde vieillira rapidement, les personnes du baby-boom au Vietnam seront dans la phase la plus productive de leurs carrières.

La Chine demeure le modèle le plus évident pour la combinaison entre des réformes de marché et l’idéologie communiste, bien que la majorité des Vietnamiens préféreraient ne pas admettre qu’ils ont calqué leur système sur le modèle de leur ancien ennemi. Certes, le parti dirigeant du Vietnam compte également sur Singapour, un pays riche qui est nominalement une démocratie de marché libéral mais, dans la pratique, un état à parti unique dont le gouvernement contrôle les secteurs pivots de l’économie. Par exemple, le Vietnam a créé une copie carbone de Temasek, une agence d’investissement singapourienne, pour garder ses participations dans les sociétés qui sont en partie privatisées .

Evidemment, le Vietnam est trop gros et trop décentralisé pour pouvoir se calquer sur le petit Singapour. Cependant le parti communiste du Vietnam espère jouer le même tour que celui du Parti d’Action du Peuple (PAP) de Singapour en convainquant les électeurs d’accepter sa direction continue comme le prix pour la prospérité. Comme le PAP, les communistes vietnamiens cherchent à recruter des ambitieux universitaires ainsi que des penseurs naissants dans leur petit groupe à un stade précoce.

Notant que l’enseignement supérieur et l’innovation scientifique sont clés à la richesse pour le Japon, la Corée du Sud et Taiwan, le Vietnam courtise des sociétés de haute technologie étrangères et invite des pays riches à ouvrir des universités et des installations de formation sur son territoire. L’Institut Royal de la Technologie de Melbourne a déjà ouvert ses campus ultramodernes à Ho Chi Minh ville et à Hanoi. Une université allemande et plusieurs collèges coréens ont déjà été planifiés. Entre temps, des familles vietnamiennes, de celle du premier ministre vers le bas, envoient actuellement leurs enfants à l’étranger pour faire leurs études.

Alors, quelle forme l’économie syncrétiste du Vietnam va-t-elle prendre ? Comme le pays cherche à construire des sociétés nationales fortes, il n’est pas encore sûr s’il va se modeler sur le keiretsu japonais, le chaebol coréen ou les compagnies anglo-saxonnes qui se concentrent sur leurs affaires centrales. Peut-être se débrouille-t-il pour prendre les meilleurs morceaux de chaque modèle. Toutefois, Tonly Salzman, homme d’affaires américain au Vietnam, s’inquiète du danger du « col qui ne va pas avec les manchettes ».

***

Bản gốc tiếng Anh :

VIETNAM

A bit of everything

Apr 24th 2008

From The Economist print edition

Vietnam's quest for role models

A BELL chimes at noon in the pastel-coloured Cao Dai Grand Temple, about 100km (63 miles) from Ho Chi Minh City, and hundreds of worshippers in coloured robes and a variety of headgear file in. They sit cross-legged among pink columns with carvings of gaudy green-and-white dragons. All around them is their religion's symbol, the all-seeing eye. The place looks like a cross between a Chinese temple, a mosque and a Catholic church, with a touch of the Wizard of Oz's Emerald City.

Cao Dai, Vietnam's syncretistic home-grown religion, mixes Buddhism, Taoism, Christianity, Islam and other religions, teaching that all faiths are manifestations of “one same truth”. The religion was founded in 1926 by Ngo Van Chieu, a government official. By the 1940s it had become a powerful force, maintaining its own private army. It supported the Japanese occupation and at times the pro-American South Vietnamese regime, so after 1975 it was repressed by the Communists. Now, as the government eases up on religion, Cao Dai is back in favour, albeit strictly controlled. In February members of the government committee for religious affairs joined 200,000 Caodaists for a grand ritual at the temple.

Cao Dai's sunny, ecumenical message chimes well with Vietnam's foreign policy of seeking “friends everywhere”. More broadly, the faith reflects a quintessentially Vietnamese trait: casting around for role models, then trying to meld the best aspects of several of them into something uniquely suited to Vietnam.

That may come naturally to a country that has been occupied and influenced by so many foreign powers. The Vietnamese legal system is based mainly on Napoleonic principles but with bits adapted from the Chinese and Soviet models. When Vietnam was under the Soviet Union's wing during the cold war, it copied its collectivist economic model, with disastrous results. Next, it emulated Deng Xiaoping's market socialism. More recently it has grafted on elements of the World Bank's and UN agencies' anti-poverty growth models and, increasingly, the rudiments of a welfare state along European lines.

China lite

It is tempting to view Vietnam as a mini-China, since both countries are run by ardently capitalist communists, but there are differences. A foreign diplomat in Hanoi who used to serve in Beijing says that “everything here is more moderate than in China.” Vietnam is a bit less harsh with dissidents than China, and its capitalism too is less red in tooth and claw. Its health and education services have adapted more successfully to the transition to a market economy. Its press is strictly controlled, as in China, but the growing numbers of internet surfers have free access to most foreign news websites: there is no Vietnamese equivalent of the Great Firewall of China.

Whereas China is led from the top down and one man is clearly the paramount leader—Hu Jintao, who is both the head of the Communist Party and the state president—Vietnam has a consensual leadership. Its triumvirate of president, party boss and prime minister must reach accommodations with an increasingly independent national assembly and a host of other forces, and avoid upsetting the many surviving heroes of Vietnam's independence wars. China's leadership can ram through public-works projects regardless of the consequences. In contrast, the decision-making process in Vietnam can seem painfully slow—but also more equitable.

China enforced a one-child policy harshly; Vietnam had a two-child policy, pursued half-heartedly. Whereas China is already greying, Vietnam's post-war baby-boomers are now coming into their prime, and rapid economic growth has been providing jobs for them all. HSBC's chief in Vietnam, Tom Tobin, notes that in a decade or two, when much of the rest of the world will be ageing rapidly, Vietnam's boomers will still be at the most productive phase of their careers.

China remains the most obvious role model for combining market reforms with communist ideology, though most Vietnamese would be loth to admit to copying their ancient foe. But Vietnam's ruling party also looks to rich Singapore, nominally a free-market democracy but in practice a one-party state whose government still controls the commanding heights of the economy. For example, Vietnam has created a carbon copy of Temasek, a Singaporean investment agency, to retain its stakes in part-privatised firms.

Clearly Vietnam is too big and too decentralised to be able to copy tiny Singapore, but its Communist Party hopes to pull off the same trick as Singapore's People's Action Party (PAP), persuading the voters to accept its continued rule as the price of prosperity. Like the PAP, the Vietnamese Communists seek to recruit academic high-flyers and budding thinkers to their inner circle at an early stage.

Noting that higher education and scientific innovation were the keys to riches for Japan, South Korea and Taiwan, Vietnam is wooing foreign high-tech firms and inviting rich countries to set up universities and training facilities on its soil. An Australian university, the Royal Melbourne Institute of Technology, has already opened state-of-the-art campuses in Ho Chi Minh City and Hanoi. A German university and several South Korean technical colleges are planned. Meanwhile families from the prime minister's downwards are sending their youngsters to study abroad.

So what shape will Vietnam's syncretistic economy take? As the country seeks to build strong national companies, it is as yet unsure whether to model them on Japanese keiretsu, Korean chaebol or Anglo-Saxon companies that focus on their core business. Maybe it will manage to take the best bits of each model. But Tony Salzman, an American businessman in Vietnam, worries about the danger of “the collars not matching the cuffs”.

Wednesday, 27 February 2008

Nghề hấp dẫn giới trẻ (February 28, 2008)



Công chức ngoại giao: Hấp dẫn giới trẻ

Gia nhập WTO, trở thành thành viên không thường trực HĐBA Liên hợp quốc... hình ảnh Việt Nam càng trở nên nổi bật trong mắt bạn bè quốc tế và có nhiều bạn trẻ lựa chọn ngoại giao làm sự nghiệp.

img
Lễ trao bằng cho các sinh viên - Ảnh minh họa
Kỳ thi tuyển công chức vào Bộ Ngoại giao năm 2007, tiêu chuẩn đầu tiên đối với thí sinh dự thi là tuổi đời không quá 40.

Ông Phạm Sanh Châu, Vụ trưởng Vụ Văn hóa - UNESCO Bộ Ngoại giao có niềm tin mãnh liệt vào đội ngũ công chức ngoại giao trẻ tuổi thuộc thế hệ 7X, 8X.

"Họ rất giỏi, năng động và tràn đầy nhiệt huyết với công việc. Tôi hoàn toàn tin tưởng vào các cán bộ trẻ hiện nay", ông nhận xét.

30% - 50% là người trẻ

Tốt nghiệp Đại học Ngoại thương, anh Phạm Hùng Tâm nộp hồ sơ dự thi tuyển công chức Bộ Ngoại giao. Thi đỗ, anh được phân về Vụ Châu Á II và công tác ở đó đến nay đã được 14 năm.

Anh Tâm đánh giá: "Các cán bộ trẻ được đào tạo bài bản hơn, kiến thức cập nhật hơn và trình độ ngoại ngữ cũng cao hơn so với lớp cán bộ kỳ cựu. Họ tiếp thu, thích ứng nhanh với công việc và rất đoàn kết, giúp đỡ nhau cùng tiến bộ. Làm việc với họ đã giúp tôi có những cách nghĩ mới, buộc tôi phải tự phấn đấu để theo kịp họ".

Hiện tỷ lệ cán bộ trẻ từ 40 tuổi trở xuống đang ngày càng tăng trong cơ cấu cán bộ của Bộ Ngoại giao. Vụ Châu Mỹ có 40 cán bộ công chức thì hơn 1/3 trong số đó là những cán bộ trẻ.

Ở Cục Lãnh sự, tỷ lệ cán bộ trẻ cũng là hơn 1/3 và hứa hẹn sẽ tiếp tục tăng trong những năm tới. Vụ Châu Á II có trên dưới 50 cán bộ thì hơn 50% trong số đó là những người trẻ.

Cũng như ở các ngành nghề khác trong xã hội, những cán bộ ngoại giao trẻ mới vào nghề không tránh khỏi bỡ ngỡ khi làm quen với công việc. Những chuyên viên tốt nghiệp Học viện Quan hệ quốc tế có lợi thế là được đào tạo cơ bản về quan hệ quốc tế và nghiệp vụ ngoại giao nên hoà nhập nhanh hơn vào môi trường đối ngoại cấp nhà nước.

Tuy nhiên, công tác ngoại giao đa dạng, phong phú với rất nhiều công việc không tên và có tên nên để đảm bảo hiệu quả hoạt động, ngay sau khi kết thúc kỳ thi tuyển công chức, Bộ Ngoại giao tổ chức một khoá bồi dưỡng nghiệp vụ ngắn hạn kéo dài 2 tháng dành cho các thí sinh trúng tuyển.

Nhiều cơ hội trưởng thành

Trải qua một thời gian công tác, nhiều cán bộ ngoại giao trẻ đã tìm thấy cho mình sự hứng thú đối với công việc và một môi trường phát huy những kiến thức đã được học. Họ lựa chọn con đường ngoại giao trước hết xuất phát từ sự đam mê và cảm thấy công việc phù hợp với mình.

Anh Nguyễn Đức Tiến, đỗ kỳ thi tuyển công chức Bộ Ngoại giao 2006 và đang công tác tại Ban Nghiên cứu tâm sự:

"Tôi chọn ngoại giao vì cảm thấy mình phù hợp với ngành này. Môi trường nghiên cứu giúp tôi phát huy tối đa những kiến thức và khả năng của bản thân. Nói chung công tác ngoại giao khó khăn và vất vả, đòi hỏi có sự đam mê. Nếu chỉ để biết thôi thì tốt nhất đừng nên vào ngành ngoại giao làm gì".

Phạm Thùy Trang đã đỗ kỳ thi tuyển công chức Bộ Ngoại giao năm 2006 và hiện đang là chuyên viên Vụ Châu Mỹ. Sau gần một năm làm việc, Trang cho biết công việc hiện tại của cô khá tốt, gần đúng như những gì đã tưởng tưởng khi còn là sinh viên Học viện Quan hệ quốc tế.

"Làm việc ở đây, tôi có điều kiện phát huy nhiều nhất những gì mình đã được học trong trường", Trang bộc bạch.

Cùng đỗ kỳ thi tuyển công chức năm 2006 với Phạm Thùy Trang còn có Nguyễn Thị Thu Thủy. Cũng giống như Trang, Thủy khá hài lòng với công việc của một chuyên viên Vụ Châu Á II.

Thủy cho biết so với nhiều cơ quan nhà nước khác, môi trường làm việc trong Bộ Ngoại giao khá năng động, có tính cạnh tranh cao nhưng không quá căng thẳng.

Sau gần một năm làm việc, Thủy đã thu nhận được khá nhiều kiến thức cũng như kinh nghiệm cần thiết để trở thành một nhà ngoại giao trong tương lai.

Nguyễn Tiến Cường cũng đỗ kỳ thi tuyển công chức cùng đợt với Thuỷ và Trang và đang công tác tại Học viện Quan hệ quốc tế. Cường cho biết anh rất thích công việc hiện nay vì được làm đúng ngành đúng nghề.

Anh cũng không giấu mơ ước được theo đuổi nghiệp ngoại giao: "Được tham gia các hoạt động đối ngoại đã giúp tôi trưởng thành lên rất nhiều. Tôi mong muốn sẽ tiếp tục được cống hiến cho ngành ngoại giao".

Còn anh Tâm tâm sự: "Kể từ khi trở thành công chức ngoại giao, tôi đã thu nhận được nhiều kiến thức về nghiệp vụ, học được phương pháp phân tích vấn đề, trình độ ngoại ngữ ngày càng nâng cao và đi đây đi đó. Sau 14 năm gắn bó, tôi càng yêu công việc của mình".

Theo Minh Dương
Lao động

Monday, 25 February 2008

Too hard to make ends meet (February 26, 2008)



Inflation in East Asia hits Viet Nam hardest

By Roger Mitton
The Straits Times
Publication Date: 24-02-2008

A good way to sense how Viet Nam's economic boom is affecting ordinary people is to visit wet markets in the city suburbs and the rural villages.

Bundled up against the unseasonal cold, the shoppers look pinched and sullen as they poke about for affordable groceries.

They are the great silent majority of Viet Nam's 85 million people: the salaried factory hands, the drivers and builders and labourers, the working wives and retirees, the masses of lowly state minions and municipal functionaries. And they are not happy, despite the bounty of foods on offer.

The gravy train that is Viet Nam's economic boom appears to have passed them by.

They are people like Nguyen Thi Hoa, 28, a typical hardworking young mother, who toils for six days a week at a Ha Noi textile company for US$70 a month. Her husband does the same at a TV assembly plant and makes $80. Out of that, they pay $60 for a babysitter and for food and milk for their six-year-old daughter.

Then, after paying the electricity bill and getting fuel for their motorcycle and other essentials, they are left with $30 for themselves each month. A dollar a day for two working adults.

Said Hoa: "Nowadays, I can buy some meat only for my daughter, not for my husband. Sometimes I break into tears because I love my husband, but I can't give him a decent meal."

Their situation is not a rare sob story. It is increasingly the lot of ordinary working class Vietnamese who are being devastated by rampaging inflation.

Viet Nam now has the highest annual inflation rate in East Asia. At 14.1 per cent, it is almost twice as high as that of its nearest rival, Indonesia, 7.4 per cent.

And there is no end in sight. Viet Nam's inflation increased again last month by 2.4 per cent over the previous month and it is on track to increase again this month.

It is not only labourers and factory workers who are hurting, but even young professionals bristle that their college education does not count for much when it comes to earning a decent living.

Hanoi schoolteacher Nguyen Thu Phuong, 35, who earns about $150 a month, said: "A year ago, I could afford to prepare a wholesome meal of four dishes for my family. Now it's hard for me just to make two dishes.''

Even the respected former deputy prime minister Vu Khoan commented in a local newspaper that his standard of living was falling. He said: "My wife complains about rising prices every time she goes to the market. I notice it myself and we have to economise.''

Down in the nation's booming southern business centre of Ho Chi Minh City, food prices have leapt by 24 per cent compared to January last year.

And the cost of other essentials like electricity, water and petrol has soared by around 17 per cent over the past year.

Nguyen The Hai, 25, a worker at a Japanese industrial plant near Ho Chi Minh City, is single and shares a rented room with several friends in order to make ends meet.

He said: "When I started here, I got 900,000 dong a month. Now, after three years, I make 1.1 million. But while my wage has increased a bit, my rent and food and fuel bills have shot up more than 50 per cent."

Property prices have skyrocketed, as landlords exploit a lack of supply and a soaring demand caused by rural workers flocking to the cities to seek a better wage. Tenants are often abruptly told that their rent is to be doubled or even tripled, take it or leave it. And the lease contract invariably proves not worth the paper it is written on.

Said Hai: "I hoped that with all the economic good times that you read about in the papers, I'd be able to make enough to send some money back to my old parents. But now I can't even make enough for my own daily needs.''

Officially, it is all happening because of a confluence of troublesome factors. They include soaring oil prices, excess foreign currency, high wage demands, a flood of expensive imports, a growing trade imbalance - Viet Nam imports far more than it exports - poor harvests due to bad weather and natural disasters, and lingering bird flu and pig disease.

Government spin doctors throw in other reasons as well, but they still don't seem to appease the despairing lowincome workers.

After all, other countries like Indonesia, Thailand and the Philippines have the same problems and their inflation rates are less than half that of Viet Nam.

Ah, but they are more developed economies - is the usual retort.

Yet Cambodia, Laos and even China are similarly developing and prices in those countries are rising less than half as fast as in Viet Nam. China's inflation rate was only 6.5 per cent last year.

Even the state-owned media has found its patience wearing thin. A recent article in the best-selling Thanh Nien newspaper reported that "the government's moves to control the galloping prices have proved deficient, passive and fragmented in the emerging market economy''.

That said, the Cabinet has taken steps to curb the money supply, cap fuel and food prices, and impose a temporary ban on rice exports to boost domestic supply and try to keep prices down.

But it will need to do a lot more if it is to stem the growing public discontent.

On Jan 1, the minimum monthly wage for state employees was upped from $28 to $34, and for those in foreign-owned companies, from $34 to $44.

However, it appears to have been too little too late and a rash of wildcat strikes soon followed.

Said Nguyen Thanh Mai, 27, a schoolteacher in north-western Dien Bien Phu: "The small wage increase I got last month didn't match the rise in prices, so I get a bit more, but end up worse off.''

Due to similar sentiment, truculent workers walked out of factories across the nation last month, demanding more pay and better conditions to combat price hikes and soaring rentals.

Most of the strikes were settled after modest increases were paid, but that is viewed as a stop-gap measure as inflation continues unabated and ordinary folk continue to bemoan their falling living standards.

Said Phuong: "Nowadays, my husband does not have enough money to take us out to dinner like he used to do. When the kids suggest it, he says we have to save or we'll starve. Life is just more miserable these days.''

Sunday, 6 January 2008

vật giá (January 07, 2008)



Diễn biến tỷ giá đồng Việt Nam so với một số loại ngoại tệ chủ chốt tại 3 thời điểm: Cuối tháng 10 và cuối tháng 12/2007; đầu tháng 1/2008.

Loại ngoại tệ Tỷ giá ngày 7/1/07 Tỷ giá cuối tháng 10/07 Thay đổi so với tháng 1/2007 Tỷ giá bán 28/12/07

Thay đổi so với tháng 1/07 Tỷ giá bán 7/1/08 Thay đổi so với tháng 1/07
Đô la Canada - VND/CAD 13.700 16.704 22% 16.334 19,22 16.224 18,4
Đô la Australia - VND/AUD 12.484 14.491 16% 14.027 12,35 14.096 12,91
Euro - VND/EUR 20.960 23.016 10% 23.495 12,09 23.669 12,92
Bảng Anh - VND/GBP 31.610 33.104 4,7% 32.069 1,45 31.65 0,12
Đô la Mỹ - VND/USD 16.060 16.084 0,15% 16.030 -0,19 15.995 -0,5

(Nguồn: Tổng hợp của tác giả từ tỷ giá mua bán của các NHTM- VNN).

Nguyên Phó Thủ tướng Vũ Khoan:

Mức sống gia đình tôi giảm đáng kể

img
Nguyên phó thủ tướng Vũ Khoan trả lời phỏng vấn Tuổi Trẻ
TT -Từng được chứng kiến và nghiên cứu vụ "siêu lạm phát" hồi thập niên 1980, ông Vũ Khoan - nguyên phó thủ tướng Chính phủ - đã chia sẻ suy ngẫm và phân tích về hiện tượng lạm phát chưa có hồi kết hiện nay.

Nghe đọc nội dung toàn bài:

* Theo ông, câu chuyện lạm phát giữ vị trí nào trong bức tranh kinh tế năm nay?- Năm 2007, bức tranh kinh tế có nhiều điểm sáng như chỉ số tăng trưởng, thu hút đầu tư, xuất khẩu... nhưng cũng có một vài điểm tối.

Điểm tối nhất chính là chỉ số lạm phát, tức giá tiêu dùng tăng trên 12%, cao hơn tốc độ tăng trưởng. Chỉ số này làm bức tranh kém hẳn đi vì kinh tế tuy đi lên nhưng chất lượng sống đi xuống.

* Thưa ông, bằng cách nào chúng ta đã làm chủ được “con ngựa lạm phát” của những năm 1980? Những “đòn” quyết định là gì và có thể áp dụng được gì?

- Mức lạm phát khi đó là 800%/năm. Có rất nhiều bàn bạc, tranh luận, nhận định khác nhau. Nhiều cách thức, giải pháp đã áp dụng nhưng cuối cùng thì chúng ta tìm ra, mà thực chất là học kinh nghiệm của thế giới về bốn mối quan hệ cung cầu tạo nên lạm phát. Đó là quan hệ sản xuất - tiêu dùng; tiền - hàng; thu - chi ngân sách và xuất - nhập khẩu. Bốn quan hệ này bị mất cân đối trầm trọng.

img
Giá cả tăng vọt khiến mức sống của nhiều gia đình giảm đi
* Theo ông, bài học lớn nhất của “bài thuốc” đó là gì và có thể áp dụng cho “cơn bệnh” hiện nay?

- Bài học đó tên là “Vận hành đúng qui luật khách quan”. Bài thuốc này, theo tôi, luôn đúng trong vận hành kinh tế. Tuy nhiên, mỗi thời điểm lại có những triệu chứng khác nhau nên liều lượng và cách chữa trị cũng phải khác nhau.

Tôi cho rằng hiện nay nền kinh tế của chúng ta không mắc bệnh ở cả bốn mối quan hệ trên. Sản xuất và tiêu dùng thì thực chất hiện không thiếu hàng hóa. Sự thiếu hụt chỉ mang tính cục bộ và tức thời, như thiếu thịt gà khi dịch cúm gia cầm, thiếu thịt trâu bò khi có bệnh lở mồm long móng. Một số vùng thiếu hàng tiêu dùng cũng chỉ là trong thời điểm lũ lụt, thiên tai. Sự thiếu hụt này luôn có sản phẩm thay thế. Vì vậy giải pháp hạ thuế nhập khẩu nhằm tăng hàng để hạ giá là không trúng “huyệt”. Thu chi ngân sách mới ở mức bội chi trên dưới 4% là không quá nghiêm trọng.

Tuy nhiên, hai mối quan hệ còn lại thì có vấn đề. Xem ra thì tiền qua kênh phát hành, tín dụng, đầu tư đều cao. Theo thông tin từ các chuyên gia, báo chí, lượng tiền phát hành tăng trên 30%, trong đó có một lượng lớn được dùng để mua ngoại tệ; tín dụng từ các ngân hàng tăng trên dưới 35%, đầu tư toàn xã hội tăng trên 15%, chiếm tới 40% GDP là mức khá cao, chỉ kém Trung Quốc. Trong khi đó ít thấy các biện pháp nhằm kịp thời thu hồi tiền về, nhiều công trình chôn vốn, vòng quay không nhiều.

Một hiện tượng đáng chú ý nhưng ít được đề cập là tổng mức bán lẻ tăng tới trên 22%, nếu trừ nhân tố giá thì vẫn cao hơn các năm. Về cân đối xuất nhập khẩu thì nhập siêu ngày càng lớn. Đành rằng trong giai đoạn hiện nay ta chưa thể cân bằng xuất nhập, song không thể xem nhẹ tình trạng nhập siêu vì nó góp phần đẩy lạm phát lên.

Lạm phát là căn bệnh nan y, bốc thuốc chữa trị nó bao giờ cũng có tác dụng phụ. Vì muốn hút tiền về thì phải tăng lãi suất tiền gửi, nhưng như vậy sẽ phải tăng lãi suất tín dụng, từ đó tác động đến sản xuất. Muốn gia tăng xuất khẩu thì không thể để giá nội tệ quá cao. Nhưng điều chỉnh tỉ giá là bài toán tiềm ẩn nhiều tác động khó lường. Do vậy, muốn chữa lạm phát thành công, duy trì được tăng trưởng kinh tế, không gây xáo động xã hội đòi hỏi cả một nghệ thuật điều hành tinh tế.

* Theo ông, nghệ thuật đó là gì? Và lời giải bài toán lạm phát - tăng trưởng hiện nay có “tín hiệu” nghệ thuật ở đâu không?

- Quốc gia nào cũng muốn tăng trưởng cao nhưng lạm phát thấp. Nghệ thuật nằm ở chỗ chúng ta thúc đẩy tăng trưởng nhưng chấp nhận lạm phát ở mức nào. Nay chúng ta đã đặt ra và hoàn toàn có khả năng đạt mục tiêu tăng trưởng cao thì toàn bộ vấn đề là có nghệ thuật và những biện pháp hữu hiệu khống chế lạm phát có hiệu quả. Tôi thấy gần đây Ngân hàng Nhà nước đã đưa ra chủ trương linh hoạt tỉ giá liên ngân hàng. Đây có lẽ là những bài thuốc đánh trúng bệnh vì nói cho cùng, lạm phát là căn bệnh tiền tệ, là hiện tượng kinh tế, do vậy phải chữa bằng “thuốc” tiền tệ, “thuốc” kinh tế. các biện pháp hành chính là cần thiết nhưng chỉ có thể bổ sung như vật lý trị liệu, xoa bóp mà thôi.

* Ông đối mặt với cuộc sống giá cả tăng quá cao này như thế nào?

- Cũng giống như mọi gia đình chỉ trông vào đồng lương, mức sống gia đình tôi bị giảm đi đáng kể vì giá những sản phẩm thiết yếu đều tăng. Nhà tôi đi chợ hôm nào về cũng kêu giá lên khiếp quá. Tôi cũng cảm nhận được điều đó. Từ thịt, cá, rau, mắm đến gas... đều ảnh hưởng. Trong hoàn cảnh ấy, đương nhiên phải dè sẻn thêm.

Thật ra đối với gia đình tôi thì lạm phát chưa tác động quá mạnh vì hai vợ chồng già chẳng ăn tiêu bao nhiêu. Nhưng cứ nghĩ đến bà con nông dân, đồng bào dân tộc thiểu số và người nghèo đô thị kiếm một đồng quá nhọc nhằn thì không hiểu bà con xoay xở thế nào. Lạm phát những năm 1980 đánh vào mọi người lúc đó nghèo như nhau. Nay trước hết nó đánh vào những người nghèo. Đó là nỗi xót xa của chúng ta.

QUANG THIỆN (Báo Tuổi trẻ)

Friday, 16 November 2007

TỪ VỰNG (November 17, 2007)

I do not contradict the critical importance of vocabulary in doing translation or practicing any skill of a foreign language. But I strongly believe that a good vocabulary does not have much to do with "quantity", i.e. the number of words/expressions/phrases that one has come across and put down in his/her notebook over time. It is the quality of his/her vocabulary that counts more. By "quality" I mean a true command of the words and expressions and their usage.

If there happen to be those words or phrases that are too slippery for someone to grasp or that suddenly jump out of his/her memory, it may well be because when picking up those vocabulary items s/he was not given adequate contextual aids which are conducive for an easy memorization and/or for an effective usage later on. There are also situations in which one may be trying to memorize words and expressions without being aware that they are rarely used or even have fallen into disuse.

Remember, words and phrases, especially those with literal or technical meanings, once divorced from their contextual meanings, can backfire very seriously. So, as a regular user of a foreign language, one should not regret too much if s/he happen to forget some words. As long as one can still communicate effectively with his/her interlocutor, and/or respond quickly in simultaneous translation, by using a simple and commonly-used vocabulary, s/he has every reason to be confident in his/her command of the language involved.