Showing posts with label tiếnthành. Show all posts
Showing posts with label tiếnthành. Show all posts

Saturday, 28 March 2009

Về những giọng ca nam của Việt Nam( March 29, 2009)

Clip minh họa: AC&M hát Anh vẫn hành quân của Huy Du. Băng tư liệu Con đường Âm nhạc số 18- Chân dung nhạc sỹ Huy Du.

Trao đổi với anh Trần Thanh Tú* về giọng hát của các nam ca sỹ Việt Nam:

1. Thôi thì mấy ông Trần Thụ, Mai Khanh, Quốc Hương, Trần Khánh,Trung Kiên, Quý Dương, Kiều Hưng, Trần Hiếu thì anh em mình sẽ chuyển sang bình luận về cảm thụ sau vì mức độ phổ cập trong danh tiếng của họ cũng khá cao... Nhưng chưa thấy anh nói về Tiến Thành, một người cùng thời với anh. Em gọi Tiến Thành là “Nghệ sỹ đặc biệt” trong phân loại tư liệu của các ca sỹ trong bộ sưu tập của em. Em có một bài khá dài trên blog về Tiến Thành, nhưng chủ yếu là dựa vào trí nhớ chắp ghép của em… Nhóm Tiến Thành, Huy Hùng, Đăng Khoa, Hữu Nội rất hay hát cùng nhau. Dù cho phần lớn các bài đồng ca của Đài không có giới thiệu từng ca sỹ, nhưng em có thể tách giọng từng người ra một. Giọng ông Đăng Khoa hơi xù xì, thô ráp nhưng có sức hút kỳ lạ. Huy Hùng có lúc hơi nhạt, nhưng em thấy giọng hát rất trẻ và tình tứ. Cũng là người Hải Phòng anh nhỉ. Ông Hữu Nội thì nhìn hình thức đúng là một ông nghiện, nhưng giọng nam cao của ông ý ở Việt Nam hiếm thật. Trong dàn hợp xướng giọng ông ý át tất cả các giọng khác ... Đặc trưng vibrato của Hữu Nội theo em là “phép rung” chứ không phải “tật rung” như Lê Dung đời đầu anh nhỉ J. Doãn Tần thì anh có nói qua và nhiều người biết. Nhưng cùng kiểu giọng như Doãn Tần em nhớ còn có Hoàng Chè. Lần làm chương trình 50 Điện Biên Phủ em có gặp chú ấy, nhưng chả có dịp nói chuyện. Hoàng Chè có bài "... hỡi đồi cao A1 ... đến Điện Biên hôm nay lòng như say điệu hát. Có mùa hoa ban ở trên nẻo đường quê xa. Có tình yêu muôn thuở là Điện Biên quê ta" hay ghê. Mà em nhớ đọc ở đâu đó có nói Hoàng Chè là thanh niên Hà Nội thứ thiệt.

2. Có những giọng nam hiền lành như anh đã nói là Ngọc Tú. Ngoài bài Mời anh đến thăm quê tôi được dàn dựng, hòa âm rất hay em còn rất thích bài Cánh chim tuổi trẻ (Tạm biệt phố phường Hà Nội, tạm biệt những mái trường … ta đi tới những miền đất mới, ta mang sức trẻ của mùa xuân …). Ngày nay có Phạm Văn Giáp có giọng gần giống Ngọc Tú. Bên cạnh Ngọc Tú em thấy có Trung Bộ của Văn công QK2 cũng có giọng nam trung hiền lành như trong "Lim dim câu hát sông cầu". Ông Trung Bộ còn hát rất hay trong tốp ca của bài Tiếng đàn bên bờ sông biên giới của Phạm Tuyên (mà những năm 80 VTV sử dụng làm nhạc hiệu chương trình ca nhạc). Có giọng nam cũng hiền lành và hơi "mềm" là Minh Quang của TCCT. Minh Quang này em rất thích khi ông ấy hát Lá đỏ, Ta ra trận hôm nay. Minh Quang song ca với Lê Dung bài Củ Chi yêu thương rất hay và nhiều bài khác nữa. Sau này có Minh Quang trẻ trẻ nữa. Nhưng Minh Quang này giọng "mô phạm" giống kiểu Trần Tựa, Trọng Thủy là những chất giọng mà em không được thích cho lắm :) Hiền lành và hơi cứng nữa thì phải kể đến chú Mạnh Hưng nổi tiếng đẹp trai của TCCT. Trong các bài hát của chú này em chỉ lưu có 2 bài là Cửa biển chiều hôm của Huy Du và Thành phố tôi yêu của Phạm Đình Sáu viết về TPHCM (Đẹp mãi mùa xuân thành phố của tôi, rộn vang tiếng ca ngợi tên Bác Hồ, sức sống sinh sôi nhịp vui hối hả ...) Nhưng em thấy Ái Vân hát bài Thành phố tôi yêu tình tứ và thiết tha hơn nhiều. Ái Vân thu bài này cùng thời với 2 bài của Hoàng Dương là Matxcova một tình yêu và Mai em đi rồi.

3. Rồi còn Phan Huấn nữa. Phan Huấn cũng hiền hiền. Ông ấy có lẽ là người đầu tiên hát Hành khúc ngày và đêm của Phan Huỳnh Điểu. Trong bản nhạc mà Phan Huấn hát không có đoạn “Rất dài và rất xa …” mà thay vào đó là đoạn vocal “hò ơ ơ…”. Phan Huấn cũng là người đầu tiên hát Đàn Tơ-rưng (Nguyễn Viêm & Huy Cận: Anh bắc qua con suối, chiếc cầu phao âm thanh …) với đoạn giả thanh ở câu cuối rất điệu nghệ và đặc sắc. Một trong những tư liệu quý của em lại chính là bài Tình ta biển bạc đồng xanh của Hoàng Sông Hương (tư liệu viết là Rừng xanh) mà ông Phan Huấn song ca cùng Tuyết Thanh. Bài hát này vốn dĩ rất hay, nhưng không hiểu sao VOV không cho lưu hành, tới mức gần đây khi Việt Hoàn, Anh Thơ và một số cặp song ca trẻ khác cover lại thì nhiều người mới biết là có bài hát này. Có người nói, bài này cũng giống như bài Tâm tình người thủy thủ của Đức Minh có hơi hướng nhạc vàng, tiểu tư sản thế nào đó nên ngày xưa bị cấm (!)

4. Bên cạnh mấy giọng nam hiền lành đó thì em còn rất thích những giọng nam khỏe khoắn, rắn chắc kiểu cổ điển, như là Quang Phác trong Hò biển mà anh đã kể sơ qua. Từa tựa như Quang Phác em thấy có Huy Giảng trong Bài ca bên cánh võng, Chiếc ba lô và bài ca tình nguyện, Hãy cho tôi lên đường … Bật hẳn lên trong nhóm này em nghĩ là Quang Hưng. Từ “hào sảng” và “lạc quan” có lẽ là hai từ rất trúng để nói về giọng hát Quang Hưng. Nó khác với “hào sảng” nhưng lại “bi tráng”, “kịch tính” và có khi “u uất” trong giọng hát của Trần Khánh.

5. Tổng hòa các vẻ đẹp của nhiều giọng nam phải kể đến Dương Minh Đức. Theo em đây là một trường hợp đặc biệt. Giọng Dương Minh Đức vừa kinh viện lại vừa trẻ trung. Rất nam tính và lại rất mềm mai, uyển chuyển. Về quãng giọng chắc sánh ngang với Trung Kiên nhưng Dương Minh Đức lại không hát gắt như Trung Kiên. Giọng Dương Minh Đức rất bay nhưng lại không bị mảnh và mái như Doãn Tần, Hoàng Chè, không chói như Hữu Nội. Dương Minh Đức hoàn hảo trong Như sóng về trùng dương của Hoàng Dương hay Nhựa bạch dương (nhạc Liên Xô). Những bài hát gắn chặt với tên tuổi Dương Minh Đức còn phải kể đến Rừng chiều của Vũ Thanh, Tôi là người thợ của Phan Thanh Nam, Hát về Tổ quốc tôi của Hữu Xuân. Bài Sa Pa thành phố trong sương hay nhất thì phải kể đến bản thu giọng hát của Ngọc Khuê (tác giả của Mùa xuân làng lúa làng hoa) với dàn nhạc dây của Đài VOV. Tuy nhiên, nhiều người vẫn thích bản của Dương Minh Đức hơn với lập luận rằng Dương Minh Đức làm toát lên được cái huyền ảo, cái mênh mang của một thành phố trong sương. Bài hát này nằm trong số các ca khúc thời chiến tranh biên giới với Trung Quốc, nhưng không hề có không khí chiến tranh. Có những bài hát gắn liền với tên tuổi của một ca sỹ. Và do đó bất kỳ ca sỹ nào hát sau đó đều được coi là liều lĩnh và khó thành công. Chẳng hạn như Quỳnh Liên và Ngọc Minh không thể cạnh tranh với Thanh Hoa trong Mùa xuân làng lúa làng hoa; Trung Anh lại càng không bao giờ làm được việc đó. Thế nhưng điều này không xảy ra với Dương Minh Đức. Bác Hồ một tình yêu bao la do Dương Minh Đức tồn tại rất chững chạc bên cạnh phiên bản đỉnh cao của Thanh Hoa. Chiều trên bến cảng của Dương Minh Đức cũng không hề bị lu mờ trước tên tuổi của Ngọc Tân… Tuy nhiên, giống như đồng nghiệp nữ của mình là Kim Phúc, giọng Dương Minh Đức ngày nay không còn được như xưa. Thậm chí nhiều người không nhận ra được Dương Minh Đức ngày xưa nếu chỉ quen với giọng hát hiện nay của ông phó hiệu trưởng nhạc viện Quân đội này.

6. Giọng nam trầm của Việt Nam hiếm anh nhỉ? Nếu liệt kê ra thì em chỉ biết có Trần Hiếu và Quang Huy. Trần Hiếu thu ở Đài VOV không nhiều đâu. Em chỉ sưu tập được chưa đến 10 bài, trong đó em thích nhất là “Những viên đạn trao từ đôi mắt” (hay Những đôi mắt mang hình viên đạn). Trần Hiếu hát Hồ Chí Minh đẹp nhất tên Người với dàn nhạc dân tộc pha với dàn nhạc dây rất hay. Đúng là em có nhiều bản, trong đó có 5 bản đỉnh, một của Kiều Hưng, một của Trung Kiên, một của Bích Liên, một của Tuyết Thanh và một của Trần Hiếu thì mỗi bản đều có một cái hay riêng. Ông Trần Hiếu còn thu Hành khúc ngày và đêm, trong đó có một đoạn hát nói rất hay. Còn Quang Huy thì em cực thích bài Đường Trường Sơn xe anh qua. Phải nói bài này hay vì một lý do rất quan trọng là phần phối khí quá hay, tiếng contrebasse sử dụng rất hiệu quả. Quý Dương thu bài này trước Quang Huy, phần phối khí bằng dàn nhạc dây cũng rất hay nhưng có vẻ bản của Quý Dương ít người biết đến hơn. Quang Huy còn hát nhiều bài nổi tiếng khác như Bên lăng Bác Hồ, Lướt sóng ra khơi. Nhưng quả thật em thấy giọng bass của Quang Huy già quá. Nhiều lúc em thấy nó hơi tối. Mà đồng chí Quang Huy này có vẻ cũng là một trong những nam nhân của làng ca nhạc thời đó. Em thấy rất hay song ca cùng Ái Vân.

7. Công nhận mấy ông “Quang” của mảng ca khúc đều “sáng” thật. Ở trên em nói đến Quang Phác, Quang Hưng, rồi Quang Huy. Còn phải kể đến Quang Mạo nữa chứ. Hồi Đoàn Ca nhạc nhẹ Trung ương của Trần Bình làm các Gala và Nhạc hội những năm đầu 90, em nhớ có bài báo giật tít là trong đêm Nhạc hội vừa qua “cả 3 Quang đều tỏa sáng”. Một Quang trong đó là Quang Mạo. Hình như Quang Mạo là người nhà của Ngọc Lan nhạc viện thì phải. Ngày xưa em đọc báo Hà Nội mới thấy nói thế. Quang Mạo dẫn dẵt cho Ngọc Lan vào Nhà hát nhạc vũ kịch hay sao đó. Về Ngọc Lan chắc em sẽ nói tới trong một dịp khác vì hôm nay chúng ta nói về các nam ca sỹ. Nhưng dù sao em cũng nói luôn là mấy cô giáo thanh nhạc “nổi tiếng” hiện nay như Ngọc Lan, Hà Thủy… đều không có tác phẩm để đời trong VOV. Họ hát mấy bài trong VOV đuối lắm…

8. Quang thứ 2 mà bài báo nói đến là Quang Huy thì em đã nói rồi. Còn Quang thứ 3 chính là Quang Thọ. Nói đến Quang Thọ thì em lại phải trở lại với đặc điểm giống Trần Hiếu là Quang Thọ cũng rất có ít bài thu âm tại VOV. Hình như những năm 70, 80, Quang Thọ chả có tên tuổi gì cả, hoặc là ông ấy còn ở văn nghệ quần chúng, còn ở địa phương. Em tuyệt nhiên không tìm được bản thu âm nào của Quang Thọ lúc trẻ. Đến Đức Long, cũng là người Quảng Ninh, mà em còn tìm được bản thu năm 1979, khi đó tên là Đỗ Đắc Long (không biết các kỹ thuật viên có ghi nhầm tên không, nhưng giọng thì đúng là của Đức Long). Nhưng với Quang Thọ em chỉ tìm được các bản thu sau này. Và em cũng chỉ lưu hai bản là Vang mãi bản tình ca của Trọng Bằng và Ta tự hào đi lên ôi Việt Nam là hai bản mà em rất “chịu” Quang Thọ. Còn thực ra em không khoái giọng Quang Thọ lắm đâu vì em thấy chú ấy cứ ngậm miệng lại, tiếng hát nó trở nên không khoáng đạt.

9. Cũng là nghệ sỹ nhân dân nhưng rất ít bản thu trong hai thập kỷ 70 và 80 tại Đài là đồng hương của em, và cũng là đồng hương của bà Thương Huyền, đó là Trung Đức. Trong “thời xa vắng” của nhạc VOV, em tìm được mỗi một bản của Trung Đức là Hò biển. Giọng vang, sâu và bay lắm, chứ không bị gân guốc như gần đây. Nhưng bù lại sự thiếu hụt thuở xưa, Trung Đức thu âm khá nhiều trong những năm cuối 80 và đầu 90. Nhưng em lại xếp những bản thu đó vào nhóm “Nhạc trẻ thập niên 80-90” chứ không phải nhóm “Kinh điển Việt Nam” trong tổ chức bộ sưu tập của em. Phải công nhận loạt bài thời đó của Trung Đức thực sự khiến chú ấy là sao của bầu trời ca nhạc Việt Nam khi đó, nhất là trên truyền hình, cùng với Thanh Hoa, Thu Hiền là những người có tần số xuất hiện trên truyền hình vào hàng số một. Những tác phẩm để đời của Trung Đức phải là Thì thầm với dòng sông, Đi tìm câu hát lý thương nhau, Hoa bằng lăng, Biển hát chiều nay… Nhưng em nghe nói, cũng như Mạnh Hà, thậm chí cả Lê Dung, Trung Đức rất khổ sở về nhịp. Như thế là sao nhỉ? Như thế thì có lẽ họ nên hát với piano anh nhỉ?

10. Thời kỳ Trung Đức oanh tạc ở miền Bắc và trên truyền hình thì em nhớ là ở miền Nam có Quang Lý, Thế Hiển, Lê Hành rất sáng. Lê Hành tất nhiên có Con kênh ta đào được em xếp vào nhạc kinh điển. Nhưng chủ yếu, cũng như Trung Đức, em xếp các bài hát của mấy vị này vào phần nhạc trẻ. Sau này thì thấy rằng, nói một cách thật chính xác thì họ là thế hệ chuyển tiếp, là cái gạch nối giữa kinh điển và nhạc trẻ. Thời kỳ của họ đánh dấu giai đoạn cuối cùng trong tính “nhất nguyên” trong đời sống âm nhạc Việt Nam trước khi chúng ta chuyển sang thời kỳ “tam giáo đồng nguyên” trong đó nhạc đỏ, vàng, xanh cùng tồn tại, cùng phát triển mà em sẽ bàn với anh trong dịp khác… Quang Lý sau này em không thích lắm, giọng giống Ngọc Tân lúc về già, tức là mũi bị sao đó, nhưng không sáng bằng Ngọc Tân. Tuy nhiên Quang Lý hát Thuyền và Biển và đoạt giải 3 trong cuộc thi đơn ca chuyên nghiệp toàn quốc năm 88 thì thật là không ai bằng. Thế Hiển năm đó hát Đất nước, Chuyện ngày xưa chuyện ngày nay, Cây đàn ghita của Lorica cũng trở thành những bài đóng đinh trên sóng VOV cho tới nay. Vì Lê Hành hát một bài hit thời kỳ đó là Một rừng cây một đời người mà em xếp chú ấy vào nhóm nhạc trẻ 80-90!

11. Thật lạ là sau lớp Trung Đức, Quang Lý thì chúng ta bị gián đoạn một thời gian, không có gương mặt nào sáng bật lên. Nói đúng ra thì lớp sau phải kém lớp Trung Đức, Quang Lý 10, 15 tuổi. Hồi đó thì nhạc trẻ miền Nam và Hải Đăng nổi quá rồi với Ngọc Sơn (Chiếc vòng cầu hôn), Thanh Nam (Câu chuyện nhỏ của tôi), Anh Duy (Thuyền và biển), Đỗ Hữu Xuân (Trở về dòng sông tuổi thơ)... Hay dòng nhạc Phú Quang, Dương Thụ, Trần Tiến nổi lên làm nổi danh Thanh Long bass, hay Nguyễn Hoàng với Tùy hứng lý qua cầu. Nhưng đó là nhạc trẻ và toàn là ở phương Nam. Còn nhạc đỏ thì cũng chính các nam ca sỹ ở miền Nam mới chiếm lĩnh thị trường. Đó chính là phong trào các ca sỹ miền Nam hát nhạc đỏ với đầy đủ những Lệ Thu (Trường Sơn Đông, Trường Sơn Tây), còn nam ca sỹ thì có Thế Sơn (cover lại Lá đỏ, Ngọn đèn đứng gác) hay Quang Bình (Trang Thanh Lan), thậm chí cả Nguyễn Hưng … Nhưng đó cũng là kiểu hát nhạc đỏ mà em mãi không làm quen và chấp nhận được. Điều em muốn nói ở đây là lúc này ở miền bắc các nam ca sỹ trẻ thật sự là thiếu. Minh Thắng có thấp thoáng xuất hiện ở Đoàn ca nhạc nhẹ trung ương với mấy bài, như Thuyền và biển (Hữu Xuân) hay Điều giản dị, Mùa xuân tương lai nhưng sau đó biến mất hoàn toàn. Quang Vinh thì không hẳn là ca sỹ. Bên Nhà hát Tuổi trẻ thì Hồng Kỳ, Thanh Tùng bắt đầu lo chạy theo nhạc trẻ của thị trường. Phải đến 93, 94 Tấn Minh mới xuất hiện nhưng chủ yếu là kiểu ca sỹ học trò và không xác định được rõ thế mạnh. Cũng trong thời kỳ xuất hiện Tấn Minh thì khán thính giả rất có cảm tình với các sinh viên của Trường Văn hóa nghệ thuật quân đội với các gương mặt như Ngọc Lê, Hồng Hải, Minh Hoa, Hương Mơ. Nam thì có Thế Vũ, Hồ Tùng. Hồ Tùng sau này vì mắc bạo bệnh nên sức khỏe suy sụp, có thời em thấy chuyển sang dạy hát trên VOV. Thế Vũ khá sáng sủa, có lúc được liệt vào cùng thứ hạng với Thanh Lam, Mỹ Linh … nhưng lúc về Nhà hát Ca múa nhạc Việt Nam của Tiến Định lại không phát huy mấy. Anh này giờ đã chuyển sang kinh doan … Rõ ràng đây là thời kỳ tranh tối tranh sáng trong mảng ca khúc ở Việt Nam mà trong đó phần nhạc kinh điển bị lép vế, các nam ca sỹ bị xuống hạng.

12. Chắc sẽ có một dịp anh sẽ kể cho em nghe về các ca sỹ của phong trào “Khắp nơi ca hát”. Qua nói chuyện với anh thì em biết rằng Tuyết Minh, Chu Thanh Hương, hay Phương Nhung (thời kỳ đầu) là những người như vậy. Còn thời của em thì em biết đến Quỳnh Liên, Tuyết Tuyết, Minh Châu, Quỳnh Hoa (hơi đuối hơn) … Rõ ràng nghe họ hát thì không thể phân biệt được chuyên hay không chuyên, càng không thể gọi họ là dân nghiệp dư. Có lẽ ở đây chuyên hay không chuyên chỉ là nói đến họ có qua trường lớp chính quy hay không mà thôi. Trong nghệ thuật thì trường lớp không phải là yếu tố quyết định tất cả. Còn nói dến các nam ca sỹ không chuyên thì em biết Đức Diên qua Một thoáng Tây Hồ, Mỗi bước ta đi thêm yêu Tổ quốc. Anh này năm kia còn xuất hiện để bình luận về các Sao Mai dòng thính phòng và dân gian. Nhưng theo em “hiện tượng” trong phong trào “Khắp nơi ca hát” phải là Tốp nam nhà máy toa xe Hải Phòng. Hình như ông Huy Túc là từ đây mà ra? Có lẽ phải gọi họ là một đoàn ca nhạc chuyên nghiệp mới đúng. Cứ nghe họ hát Đêm Trường Sơn nhớ bác, Đường tàu mùa xuân, Ta ra trận hôm nay … thì có lẽ chỉ có AC&M hiện nay nếu chưa tan rã mới có thể cover lại được J

Thôi nói tới AC&M là phải nói đến thế hệ trẻ sau này rất lâu rồi. Em sẽ trở lại và hầu chuyện anh về “hình sin” trong đồ thị âm nhạc Việt Nam vào lần sau, trong đó có sự hồi sinh của dòng nhạc kinh điển sau đỉnh cao và bão hòa của nhạc trẻ Việt Nam. Còn bây giờ chúng ta nghe AC&M hát Anh vẫn hành quân của Huy Du. Băng tư liệu này lấy từ Live show Con đường Âm nhạc số 18- Chân dung nhạc sỹ Huy Du.

---

* Trần Thanh Tú: Bạn diễn trong những năm 80's của các ca sỹ Ái Vân, Lệ Quyên, Họa Mi, Thanh Lam... Là học trò của Quý Dương, Diệu Thúy. Anh Tú từng là giám khảo chấm Hồng Nhung trong một cuộc thi năm 1987

Thursday, 12 March 2009

Đến cao nguyên người ở đừng về (March 13, 2009)



1. Tháng Ba Tây Nguyên. Sáng tác nhạc của Văn Thắng. Lời thơ của Thân Như Thơ. Nghệ sỹ Nhân dân Tường Vy song ca cùng Nghệ sỹ Trọng Hinh.

2. Tình ca Tây Nguyên- Sáng tác: Hoàng Vân. Nghệ sỹ ưu tú Tiến Thành hát cùng tốp nữ Đoàn ca nhạc Đài Tiếng nói Việt Nam năm 1978.

3. Nghe câu Quan họ trên Cao nguyên. Sáng tác: Vũ Thiết. Nghệ sỹ Quỳnh Liên (Cán bộ Đại học Sư phạm Hà Nội) hát cùng Dàn nhạc Đài Tiếng nói Việt Nam năm 1983.

4. Ngọn lửa Cao nguyên. Sáng tác: Trần Tiến. Ca sỹ Bách Thảo (Đoàn ca múa Hải Đăng- Phú Khánh) hát cùng giọng bè của ca sỹ Thanh Nam (Hải Đăng).

Saturday, 14 February 2009

Chiến tranh biên giới qua ca khúc Việt Nam (February 15, 2009)



Khi nổ ra các cuộc biểu tình phản đối Trung Quốc cách đây hơn 1 năm, nhiều bạn đề nghị tôi giới thiệu lại các bài hát của thời kỳ chiến tranh biên giới Việt- Trung mà các bạn ấy biết là tôi giữ lại gần như trọn vẹn trong bộ sưu tập cá nhân. Những ngày này, khi gần tới ngày 17 tháng 2, nhiều bạn lại hỏi tôi về « Tiếng súng đã vang trên bầu trời biên giới », rồi « Bốn mươi thế kỷ cùng ra trận » v.v. Tôi rất cảm kích sự yêu mến mà các bạn, cũng như tôi, dành cho nền âm nhạc cách mạng Việt Nam qua các thời kỳ. Tôi cũng hiểu cả sự tò mò của nhiều bạn nữa, một sự tò mò rất tự nhiên, hợp tình, hợp lý muốn được nghe thử, được tìm hiểu các ca khúc một thời khuấy động cả dân nhưng rồi sau đó lại chỉ còn được biết đến qua tựa đề, qua một số câu hát không trọn lời, qua sự truyền miệng trong dân gian. Có bạn đã tò mò và háo hức được nghe tới mức đã tìm cách thu lén « Tiếng súng đã vang trên bầu trời biên giới » qua YM và sau đó phổ biến một clip âm thanh với chất lượng rất thấp trên rất nhiều diễn đàn mạng...

1. Trong bài Đất nước, Tạ Hữu Yên viết Mẹ Việt Nam « ba lần tiễn con đi, hai lần khóc thầm lặng lẽ ». Rất có thể con số 3 và số 2 ở đây là những con số có tính tượng trưng vì trong suốt chiều dài lịch sử của dân tộc mình, Mẹ Việt Nam đã nhiều hơn ba lần tiễn con đi và cũng nhiều lần khóc thầm lặng lẽ. Nhưng nếu đó là hình ảnh Mẹ Việt Nam của thế kỷ 20 thì lần thứ 3 Mẹ khóc chính là lúc những đứa con của Mẹ phải ra đi để bảo vệ những miền biên ải ở hai đầu đất nước. Nếu hình dung sự phát triển của nền âm nhạc cách mạng Việt Nam như những đợt triều dâng thì đã có tới ba đợt triều cường trong thế kỷ 20. Nếu như đợt thứ nhất là của thế hệ của Điện Biên, của 9 năm, đợt thứ hai ứng với thế hệ của những « giải phóng quân xẻ dọc Trường Sơn » thì đợt thứ 3 chính là thế hệ của các nhạc sỹ, ca sỹ trưởng thành từ cuộc chiến đấu vì lý tưởng « độc lập, tự do » của cả dân tộc.

2. Ngày nay, bạn trẻ yêu nhạc cách mạng nào cũng có thể dễ dàng liệt kê hàng chục, thậm chí hàng trăm ca khúc ra đời trong hai cuộc chiến tranh Việt Nam. Nhưng nếu có điều kiện nghe lại hoặc được cha anh kể chuyện, các bạn cũng có thể kể ra một con số ấn tượng các ca khúc ra đời giữa những ngày nóng bỏng nhất của « cuộc chiến giữa những người anh em Đỏ ». Phải khẳng định ngay từ đầu rằng các ca khúc của thời kỳ chiến tranh biên giới- ca khúc chống bành trướng là một bộ phận không thể tách rời, trong kho tàng âm nhạc Việt Nam. Nếu bỏ đi giai đoạn sáng tác này, dòng chảy của nền ca khúc nói riêng và âm nhạc Việt Nam nói chung không còn liền mạch và trở nên thiếu tự nhiên. Được sáng tác trong một thời gian không dài, khoảng 3-4 năm và tập trung cao độ trong hai năm 1979 và 1980 với con số lên tới vài trăm bài hát, nhưng kho tàng ca khúc thời kỳ này có thể sánh ngang với nền ca khúc cách mạng của ba thập kỷ liền kề trước đó ở mọi phương diện. Đặc biệt, đó còn là những bản tráng ca cũng rực lửa hờn căm, ngập tràn hào khí. Một cách vắn tắt nhất, đây là một tượng đài hùng vĩ của nền ca khúc Việt Nam.

3. Các ca khúc của thời kỳ này đã được viết lên từ những thôi thúc của tinh thần dân tộc dâng cao tột độ, từ tình yêu đất nước cháy bỏng đã trở thành truyền thống của cả dân tộc, và đặc biệt là từ tinh thần chống quân xâm lăng phương Bắc- một tinh thần được hun đúc từ hàng nghìn năm qua và đã trở thành một thứ tình cảm thường trực, một thứ phản xạ của bản năng, một ý chí hiện hữu tự nhiên tựa như dòng máu chạy trong huyết quản của mỗi con dân đất Việt. Một yếu tố quan trọng nữa làm nên tầm vóc của các tác phẩm thanh nhạc thời kỳ này nằm ở chỗ, những năm cuối 70, đầu 80 là thời kỳ đỉnh cao trong kỹ thuật dàn dựng, phối khí, thu thanh của Đoàn ca nhạc và Ban biên tập âm nhạc Đài Tiếng nói Việt Nam- một « pháo đài » của nền âm nhạc cách mạng và tuyên truyền được sinh ra, trưởng thành và rèn luyện trong hai cuộc kháng chiến thần thánh của dân tộc trước đó, cũng như từ sự hỗ trợ của các nền âm nhạc lớn trong « phe » Xã hội chủ nghĩa, trong đó có cả Trung Quốc ( !), để rồi sau đó trở thành cái nôi sản sinh ra các tác phẩm còn mãi với thời gian và các tên tuổi nghệ sỹ đi cùng năm tháng.

4. Nối tiếp truyền thống và mạch cảm xúc của ba thập kỷ trước đó, các ca khúc thời kỳ này tiếp tục là tấm gương phản ánh sinh động nhất của lịch sử. Mỗi bài hát là một chỉ dấu song hành với những diễn biến của lịch sử. Một cách không hề phóng đại, thay vì tìm và đọc lại các xã luận của Hoàng Tùng trên báo Nhân dân, thay vì tìm lại bản gốc của Hiến pháp 1980 hay các tuyên bố báo chí của Bộ Ngoại giao, thay vì đọc sách trắng về quan hệ Việt-Trung, người ta có thể tiếp cận lịch sử bằng cách nghe lại các ca khúc của thời kỳ này.

5. Đó là sự tái hiện bằng âm nhạc các trận bút chiến nảy lửa trong dư luận báo chí và chính giới, như trong các tác phẩm của Nguyễn Đình Tấn và Nguyễn Mạnh Thường với giọng hát hào sảng, bừng bừng khí thế và đầy kịch tính của nghệ sỹ Quang Hưng :

« Giặc xâm lăng nói đất này đất của Trung Hoa bởi chứa trong lòng đất xương cốt ông cha đã chất chồng. Quân xâm lăng bay biết không ? Muốn tìm xương cốt cha ông, sao chỉ ở Hoàng Sa, đảo nhỏ quê ta, sóng dềnh, biển gào. Hãy đến Đông Đa, hay tới Chi Lăng, hay tới Bạch Đằng nơi bao hồn oan vất vưởng... Hãy đến đây, xương chất sẽ càng cao. Dù 50 vạn, hoặc nhiều hơn . Đụng đến Việt Nam thành đồng lũy thép, thế hiên ngang muôn thuở là mộ chôn lũ quân thù... » (Việt Nam muôn thuở mồ chôn quân thù- Nguyễn Mạnh Thường)

hay :

« Quên rồi chăng ? Những ngày cách mạng, những giải phóng quân vì Đảng hy sinh. Quên rồi chăng ? Giai cấp đấu tranh, khinh con hổ giấy giải phóng Đài Loan. Không ! Chúng không quên, chúng đâu có quên mà là bội phản. Quân phản bạn, phản dân. Hôm xưa chống Mỹ viện Triều. Hôm nay thân Mỹ đả Việt. A ha, vua Trụ, vua Việt đang sống lại hát Quốc tế ca. Thôi đi, im ngay đi !...Những người cầm quyền Trung Hoa đừng cuồng say trung cổ mà hãy nhớ lấy Chi Lăng, Bạch Đằng, Đống Đa... (Việt Nam không khuất phục- Nguyễn Đình Tấn)

6. Các ca khúc ấy đã bám chặt dòng chảy của thời sự. Nhiều ca khúc đã xuất hiện gần như ngay lập tức khi chiến tranh bùng nổ. Tiếng hát của dàn đồng ca vang dội hùng tráng trên làn sóng Đài Tiếng nói Việt Nam nhiều lần trong ngày có thể ví như các bản tin « breaking news » của CNN :

Tiếng súng đã vang trên bầu trời biên giới. Gọi toàn dân ta vào cuộc chiến đấu mới. Quân xâm lược bành trướng dã man đã giày xéo mảnh đất tiền phương. Lửa đã cháy và máu đã đổ trên khắp dải biên cương. Đất nước của ngàn chiến công vẫn sục sôi khí thế hào hùng. Những Chi Lăng, Bạch Đằng, Đống Đa đang gọi tiếp thêm những bản hùng ca. Việt Nam, ôi nước Việt yêu thương. Lịch sử đã trao cho Người một sứ mạng thiêng liêng. Mang trên mình còn lắm vết thương, Người vẫn hiên ngang ra chiến trường. Vì một lẽ sống cao đẹp cho mọi người : Độc lập, Tự do ! (Phạm Tuyên)

7. Bên cạnh những bản tin thời sự với những bài xã luận đanh thép được thể hiện qua giọng đọc truyền cảm đặc biệt của các phát thanh viên danh tiếng Việt Khoa, Tuyết Mai, Hoàng Yến, Đài Tiếng nói Việt Nam đồng thời phát đi những ca khúc mang âm hưởng của lời Hịch tướng sĩ thở xưa. Những ca khúc ấy chất chứa lòng uất hận của những người thường dân vô tội, loạn ly trong cảnh chạy giặc. Cùng với cảm xúc ấy là lòng căm thù và quyết tâm thắng giặc của những đoàn quân ra trận :

« Đoàn quân vội đi, đi về biên giới. Cũng từ biên giới về những bầy trẻ nhỏ. Đoàn quân lặng im, nhìn đàn em bé. Từng đôi mắt đen xoe tròn. Từng đôi mắt mang hình viên đạn. Ngàn đôi mắt như ngàn lời ước hẹn. Từng đôi mắt quê hương trao cho đoàn quân. Người chiến sỹ hãy nhớ lấy. Bắn tan quân xâm lược dã man. » (Những viên đạn trao từ đôi mắt- Trần Tiến, giọng hát Trần Hiếu)

Hay như :

« Hành quân lên biên giới. Non sông ta kẻ thù xéo giày, trong tim ta hận thù chất đầy. Bọn Trung Quốc xâm lược ! Phải giữ lấy mỗi tấc đất để xứng với ngàn năm. Phải đánh cho chúng nhớ lấy chớ vào đây.Hào khí chiến đấu bất khuất chống ngoại xâm... » (Lê Mây, tốp nam hát, Tiến Thành lĩnh xướng)

Và bi tráng nhất từ giai điệu cho đến ca từ, phải kể đến Bài ca biên giới anh hùng của Nguyễn Đức Toàn :

« Nén đau thương, những bà mẹ lại tiễn con lên đường đi ra mặt trận, đi bảo vệ đất nước. Ta đánh cho tan bọn Trung Quốc hung nô xâm lược. Mỗi tấc đất, mỗi dòng sông là một trận tuyến bất khuất hiên ngang chặn bàn tay khát máu... Đi đánh cho tan bọn Trung Quốc man rợ. Với khí thế Bạch Đằng Giang hãy xông lên trút ngọn lửa hờn căm... » (Tiếng hát Đăng Khoa, Trung Kiên, Hữu Nội và tốp nam)

8. Bài xã luận từng được coi như lời hịch đăng trên báo Nhân dân với tựa đề « Bốn mươi thế kỷ cùng ra trận » đã được nhạc sỹ Hồng Đăng mô phỏng hết sức sinh động bằng một ca khúc cùng tên. Không thể phủ nhận tính chất tuyên truyền và cổ động của tác phẩm này. Tuy nhiên, trong trường hợp này, chắc chắn sự rung động chân thành của tác giả đã bắt gặp cảm xúc và khí thế của cả dân tộc. Vì thế, ca khúc của Hồng Đăng đã trở thành một điểm nhấn giữa một biển ca khúc cùng thời. Đồng ca Đài Tiếng nói Việt Nam với giọng lĩnh xướng đanh thép nhưng thiết tha của Ngọc Tân và Vân Khánh đã thể hiện trọn vẹn nhất hào khí 40 thế kỷ của cả dân tộc :

« Bốn mươi thế kỷ cùng ra trận. Hát tiếp bài ca chống giặc ngoại xâm. Bốn mươi thế kỷ đều căm giận. Kẻ thù phương Bắc không đội trời chung. Một dải non sông tha thiết yêu thương. Một tiếng nói chung chỉ một con đường. Lịch sử gọi ta xông lên phía trước. Sẽ viết trọn bài ca anh hùng cứu nước. »

Lịch sử bốn ngàn năm của đất nước đã được khơi dậy từ sự đồng thuận của cả dân tộc với ý chí Diên Hồng- ý chí Việt Nam. Ý chí đồng thuận của cả dân tộc đã chuyển hóa thành sức mạnh cho một cuộc chiến tranh nhân dân tổng lực, giống như nhạc sỹ Lưu Hữu Phước đã viết :

« Cả nước hành quân theo Đảng ra chiến trường. Vì nước vì dân ta lên đường đi chiến đấu. Đèo cao đá Chi Lăng, vực sâu nước Bạch Đằng đang chờ quân giặc ở ngàn phương. Mỗi nhà là một pháo đài. Mỗi làng là một chiến khu. Năm mươi triệu dân cùng chung ý chí. Quyết đánh quân bành trướng. Quét hết lũ ngoại xâm. Thắng quân thù ta sướng vui ngàn năm. Ý chí Diên Hồng ý chí Việt Nam. » (Ý chí Diên Hồng- Đồng ca)

9. Các nhạc sỹ còn dõi theo những phản ứng của dư luận quốc tế trước cuộc chiến tranh phi nghĩa mà Trung Quốc phát động chống Việt Nam. Trong mạch cảm xúc này, nhạc sỹ Phan Nhân đã viết :

« Khắp thế giới vang lên những lời hô : không được đụng đến Việt Nam- niềm tin kiêu hãnh của loài người yêu tự do. Bọn bành trướng hiếu chiến cút ra khỏi Việt Nam ngay ! Bọn bành trướng khát máu, cút ra khỏi Việt Nam. Khắp thế giới chung lưng với Việt Nam. Bao kẻ thù đã bại vong. Nay kẻ thù sẽ bại vong. Mùa xuân vĩnh viễn sẽ rực hồng trên biển Đông... » (Không được đụng đến Việt Nam, tiếng hát Kiều Hưng, Vân Khánh)

10. Vấp phải sự kháng cự ngoan cường của quân và dân Việt Nam, quân Trung Quốc đã phải rút khỏi Việt Nam. Và đó là lúc Việt Nam tuyên bố chiến thắng. Nhạc sỹ Nguyễn Đức Toàn viết :

« Vui sao vui sao tin chiến thắng dậy non sông. Đất nước vinh quang viết trang sử anh hùng. Ta đánh thắng bọn Bắc Kinh xâm lược. Vì độc lập tự do có bao con người hy sinh cứu nước. Bốn nghìn năm lại có hôm nay. Ông cha ta bao đời bất khuất. Một biên cương chống quân xâm lược. Ải Chi Lăng vẫn còn đây. Bạch Đằng Giang đang dậy sóng. Cho đến hôm nay chiến thắng vang lừng nước non này. » (Chiến thắng vinh quang, Đồng ca Đài)

còn nhạc sỹ Phạm Minh Tuấn viết về chiến thắng trên khắp dải biên cương như sau :

« Tiếng hát chiến thắng vút lên trên miền biên cương. Quảng Ninh, Hoàng Liên Sơn cùng Lai Châu, Đồng Đăng thắng lớn... Toàn dân Việt Nam ta, 50 triệu người là 50 triệu chiến sỹ. La la la ! Độc lập tự do ta yêu ta quý vô vàn. Hát vang bài ca chiến thắng, nức lòng ta quân tiên phong. » (Tiếng hát chiến thắng, tốp nam, Tiến Thành lĩnh xướng)

11. Các ca khúc của thời kỳ này còn có một đặc điểm chung là thường xuyên nhắc tới các địa danh từng ghi dấu những chiến công oai hùng trong lịch sử dân tộc như Chi Lăng, Bạch Đằng, Đống Đa, Diên Hồng. Bên cạnh đó, rất nhiều ca khúc thể hiện thái độ tấn công trực diện, gọi Trung Quốc là « bọn bành trướng dã man », « bọn Bắc Kinh xâm lược », « bọn hung nô », « kẻ thù không đội trời chung », « quân xâm lăng », « quân cướp Bắc Kinh » … Đây có lẽ là đặc điểm làm nên tính « nhạy cảm » sau này của hệ thống ca khúc chống bành trướng. Đặc điểm này cũng dẫn tới hiện tượng sửa lời bài hát cả trong và sau cuộc chiến. Chẳng hạn Phạm Tuyên viết « quân xâm lược bành trướng dã man » trong bản gốc, nhưng trong thời chiến nhiều người hát là « quân xâm lược bành trướng Bắc Kinh ». Tương tự như vậy, Trần Tiến viết « đánh tan quân xâm lược dã man » thì nhiều người chuyển thành « quân xâm lược Bắc Kinh ». Ngược lại, sau này để tránh nói tới Trung Quốc trực tiếp như cách hát của Ngọc Tân trong bài Mẹ ơi con lên đường của Thuận Yến, « giặc Bắc Kinh kéo tới xâm lăng, gieo đau thương, tàn phá nơi biên thùy », ca sỹ Ngọc Đức (văn công không quân) đã chuyển lời thành « dù biên cương núi khuất mây che, con ra đi vì nước non mong chờ »...

12. Giá trị đặc biệt của nhiều ca khúc ra đời trong thời kỳ chiến tranh biên giới còn nằm ở chỗ chúng được viết từ cảm xúc xuất thần của các nhạc sỹ. Nếu như Phạm Tuyên đã từng xuất thần với « Như có Bác trong ngày vui đại thắng » khi cảm xúc của nhạc sỹ thăng hoa vào đúng ngày 30/4 thì lịch sử đã lặp lại vào ngày 17/2 khi ông cho ra đời « Tiếng súng đã vang trên bầu trời biên giới » (tên gọi dân gian của bài hát) với một nguồn xúc cảm tương tự. Có lẽ đây là bài hát được nhiều người nhắc đến nhất khi nói tới chiến tranh biên giới phía Bắc. Bài hát gần như gói gém tất cả suy nghĩ, cảm xúc và phản ứng của cả dân tộc Việt Nam khi ấy đối với hành động gây chiến của Trung Quốc. Nếu coi bài hát này là biểu tượng bằng âm nhạc về cuộc chiến chống bành trướng của người Việt Nam thì cũng không quá đáng. Bài hát có 2 bản thâu âm còn được giữ cho tới ngày nay. Một bản do nghệ sỹ Tiến Thành lĩnh xướng cùng với nghệ sỹ Bạch Kim. Một bản do đồng ca nam nữ Đài Tiếng nói Việt Nam thể hiện, được dàn dựng và thu thanh cùng thời điểm với « Chẳng kẻ thù nào ngăn nổi bước ta đi » của Thanh Phúc.

Thực ra xét ở nhiều khía cạnh, CHIẾN ĐẤU VÌ ĐỘC LẬP TỰ DO chưa chắc là bài hát xuất sắc nhất của thời kỳ này. Chung mạch cảm xúc đó người ta còn thấy những ca khúc hoành tráng hơn và mạnh mẽ hơn, như « Bài ca biên giới anh hùng » của Nguyễn Đức Toàn, với những câu hát : « Mẹ ơi con lên đường » của Thuận Yến (Ngọc Tân hát), « Hãy cho tôi lên đường » của Hoàng Hiệp (Ái Vân hát), v.v. Nhưng có lẽ điều đặc biệt mà « Tiếng súng đã vang trên bầu trời biên giới » có được chính là thời điểm và cách thức nó ra đời. Được biết bài hát đã được phát đi trên làn sóng điện của Đài Tiếng nói Việt Nam chỉ ít giờ đồng hồ sau khi quân Trung Quốc tràn vào bờ cõi nước ta. Thêm vào đó phải nói đến vai trò của nhạc sỹ Phạm Tuyên. Khi đó ông là trưởng ban biên tập âm nhạc của Đài, có vai trò lựa chọn, giới thiệu các bài hát. Bài hát này đã được sử dụng gần như nhạc hiệu sau các bản tin về chiến sự và các chương trình phát thanh quân đội.

13. Nghe những bài hát sáng tác trong thời kỳ này, người ta cũng sẽ có ấn tượng rằng chủ nghĩa lãng mạn cách mạng quả thực đã trở thành một dòng chảy liên tiếp từ hai cuộc kháng chiến thần thánh trước đó cho tới cuộc chiến chống bành trướng. Nếu như trong kháng chiến chống Mỹ đã có Bài ca Trường Sơn của Trần Chung với hình ảnh hết sức lãng mạn, gần như thoát ly khỏi thực tế nghiệt ngã và tàn khốc của chiến tranh (mà sau này có người ác ý hoặc ít hiểu biết về văn học cho là sự lừa dối) : «Trường Sơn ơi, trên đường ta qua không một dấu chân người, có chú nai vàng nghiêng đôi tai ngơ ngác » thì Nguyễn Đức Toàn đã mô tả không khí hành quân của các binh đoàn bộ binh trên đường ra biên giới như sau :

« Lên xe, lên xe, lên xe ta đi. Trông cây lúa chín dọc đồng quê. Nghe con sáo nó hót đầu ngọn tre. Tiếng súng vang vang trên khắp tuyến đường. Những chuyến xe ra tiền phương... »

Bằng giai điệu rộn ràng và phần hòa âm dựa trên nền accordeon giống như giai điệu của « Chào em cô gái Lam Hồng », người nghe được truyền một cảm giác lạc quan. Tiếng súng mà ngỡ như tiếng trống hội. Đi đánh giặc mà ngỡ như đi trảy hội...

14. Tình đồng đội, tình yêu lứa đôi, tình yêu tiền tuyến và hậu phương vẫn là nguồn cảm xúc không thể thiếu trong kho tàng ca khúc thời kỳ này. Những bản tình ca ra đời trên biên giới trên thực tế đã hòa mạnh nhất vào dòng chảy ca khúc của tân nhạc Việt Nam và trở thành những bản tình ca đi cùng năm tháng. Đó chính là « Tiếng đàn bên bờ sông biên giới » của Phạm tuyên mà trong suốt những năm 80 đã trở thành nhạc hiệu của chương trình ca nhạc trên đài truyền hình Việt Nam. Đó chính là « Chiều biên giới » của Trần Chung với « khi mùa đào hé nở, khi mùa gió sang cây, đôi ta cùng chiến hào, tình yêu là tiếng hát giữa đất trời quê hương » ; hay « bản tình ca đầu tiên ra đời trên biên giới là bản tình ca anh viết cho em » (Tình ca tuổi trẻ, Tôn Thất Lập). Tình tứ và sâu lắng hơn nữa phải kể đến « Tình ca mùa xuân » của Trần Hoàn với cặp song ca Thúy Lan và Phan Huấn : « Em ơi em mùa xuân đã về trên cánh lá, tiếng chim kêu ngọt quá cho trời xanh xanh thẳm ... mùa xuân biên giới súng anh gác trời xa ». Nổi tiếng nhất phải kể đến « Gửi em ở cuối Sông Hồng » được nhạc sỹ Thuận Yến viết phỏng theo thơ của Dương Soái. Bài hát xuất hiện lần đầu vào đầu năm 1980 với cặp song ca Tiến Thành và Thanh Hoa và ngay lập tức trở thành một tiết mục không thể thiếu trong bất kỳ một chương trình biểu diễn ca nhạc nào. Ngoài Tiến Thành, Thanh Hoa còn song ca rất thành công bài hát này với Ngọc Tân, Quang Lý...

15. Phong trào đặt lời mới cho dân ca cũng là mảng sáng tác phát triển mạnh thời kỳ này mà nội dung lời mới chủ yếu gắn với cuộc chiến bảo vệ biên giới. Cho tới nay nhiều khúc dân ca lời mới này vẫn được phổ biến. Tiêu biểu nhất phải kể đến « Chung lập chiến công» do Đức Miêng viết lời mới dựa trên dân ca quan họ, NSND Lê Dung hát (Anh gửi theo những cánh chim điệu dân ca, tới thăm anh nơi biên giới...). Đài Tiếng nói Việt Nam còn có riêng một chương trình ca nhạc phát sóng hàng ngày có tên « chương trình ca nhạc dành cho các chiến sỹ đang làm nhiệm vụ nơi biên giới và hải đảo »

16. Thời kỳ nào nền âm nhạc Việt Nam sản sinh ra các giọng ca vượt thời gian. Thời kỳ chống bành trướng cũng vậy. Nếu như nói tới thế hệ thứ nhất của tân nhạc cách mạng người ta nói tới Mai Khanh, Trần Thụ, Thương Huyền, Tân Nhân… ; thế hệ thứ hai với Quý Dương, Tường Vy, Bích Liên, Vũ Dậu…, thì thời kỳ chiến tranh chống bành trướng là thời kỳ của Tiến Thành, Thanh Hoa, Ái Vân, Ngọc Tân, Vân Khánh… Nếu thống kê lại, người ta sẽ thấy tiếng hát của Tiến Thành, Ngọc Tân, Vân Khánh xuất hiện ở hàng trăm ca khúc của thời kỳ này, nhất là nghệ sỹ Tiến Thành. Tiến Thành là ca sỹ lĩnh xướng hoặc nam ca sỹ hát song ca hầu hết các ca khúc của giai đoạn này. Vì thế, hoàn toàn không quá lời nếu ai đó nói Tiến Thành là « ca sỹ chống bành trướng ». Nhưng cũng chính vì thế nhiều người nói Tiến Thành ... thiệt thòi khi hầu hết các ca khúc ra đời trong thời kỳ này về sau không còn được phổ biến nữa.

17. Hai nước láng giềng xung đột với nhau vốn là điều không hy hữu trong lịch sử, nhưng bao giờ cũng là việc cực chẳng đã. Nhất là Việt Nam và Trung Quốc trong vài thập kỷ trước đó còn coi nhau « vừa là đồng chí, vừa là anh em », « môi hở răng lạnh ». Cũng trong âm nhạc, thì mối quan hệ hữu hảo đặc biệt lúc đó đã được hát rằng : « Việt Nam- Trung Hoa, núi liền núi, sông liền sông, mối tình hữu nghị sáng như dòng sông ». Tình tứ, da diết và trong sáng hơn nữa phải kể tới mối tình Việt-Trung trong Mộc Miên Hoa của Huy Du, trong đó có đoạn : « Hồng Hà ơi, Dương Tử ơi đôi ta có mối tình trong sáng, mang theo phù sa tới bốn phương trời. Đây Hồ Chí Minh, đây Mao Trạch Đông, ngôi sao chỉ nam đời đời soi sáng đường chúng ta đi ... »

18. Cũng cần lưu ý rằng ngay cả trong thời kỳ chiến tranh biên giới và những năm căng thẳng sau đó, Việt Nam và Trung Quốc chưa bao giờ cắt đứt quan hệ ngoại giao. Mỗi nước vẫn duy trì sứ quán của nước mình tại thủ đô nước kia. Mối quan hệ thù nghịch một cách công khai và chống phá nhau một cách toàn diện trên tất cả các mặt trận chính trị, kinh tế, tư tưởng, văn hóa, tức là chiến tranh tổng lực, chiến tranh nhân dân, trên thực tế , có lúc lại chỉ được đơn giản hóa là một mối quan hệ không bình thường, thậm chí dư luận quốc tế cũng chỉ gọi chung chung là xung đột biên giới, các cuộc đụng độ ở biên giới (border skirmishes). Dù nói theo cách nào thì đó cũng là một mối quan hệ không bình thường và một giai đoạn lịch sử không bình thường.

19. Thiện chí muốn bình thường hóa quan hệ với Trung Quốc được nêu chính thức trong văn kiện của Đại hội Đổi mới của ĐCS VN, đại ý nói rằng Việt Nam sẵn sàng ngồi lại đàm phán với Trung Quốc ở bất kỳ đâu, vào bất kỳ thời điểm nào và trên bất kỳ vấn đề gì nhằm tiến tới bình thường hóa quan hệ song phương. Tiếp sau đó, vào năm 1988, cùng năm Trung Quốc đưa tàu chiến tấn chiếm một phần Trường Sa, Việt Nam đã có một động thái hết sức quan trọng nhằm tiến tới một mối quan hệ bình thường giữa hai nước bằng việc sửa lại lời nói đầu của Hiến pháp 1980, không còn nêu Trung Quốc là « kẻ thù truyền kiếp không đội trời chung » nữa. Đi kèm theo nó, hai bên cũng thỏa thuận chấm dứt các hoạt động chống phá lẫn nhau trên cả mặt trận tư tưởng, văn hóa. Một trong những việc làm thực hiện thỏa thuận này của phía Việt Nam là việc gỡ bỏ phần trưng bày về chiến tranh chống bành trướng ra khỏi Bảo tàng Cách mạng Việt Nam. Tương tự như vậy, tất cả các tài liệu, ấn phẩm, các tác phẩm văn học, nghệ thuật tuyên truyền chống nhau đều CHẤM DỨT LƯU HÀNH . Và đó là lý do mà không ai còn nghe thấy từ làn sóng điện của Đài Tiếng nói Việt nam hay Đài truyền hình Việt Nam những câu hát như « Tiếng súng đã vang trên bầu trời biên giới nữa ». Được biết, Việt Nam và Mỹ gần đây cũng có thỏa thuận tương tự. Mà đã là thỏa thuận thì rất cần được tôn trọng.

20. Tuy nhiên, ở đây có ít nhất hai góc độ để nhìn nhận câu chuyện âm nhạc này, một là đối ngoại, hai là lịch sử dù rằng hai góc nhìn không có sự tách biệt tuyệt đối. Còn nhớ, trong một cuộc tọa đàm hẹp, nhà sử học Dương Trung Quốc đã nêu vấn đề chiến tranh biên giới với một lãnh đạo cao cấp của nước ta. Đồng chí lãnh đạo này, trong khi ghi nhận sự cần thiết phải đi đến cùng trong nghiên cứu khoa học lịch sử nhằm tiếp cận chân lý, vẫn khẳng định rằng trong chính trị, đối ngoại không phải điều gì cũng nên được phơi bày, nhất là vào thời điểm không thích hợp. Thiết nghĩ, đó cũng là sách lược hợp lý, tựa như cách « trong xưng bá, ngoài xưng vương » của cha ông ta ngày xưa.

Tuy nhiên, xử lý mối quan hệ giữa ngoại giao và lịch sử là cả một nghệ thuật. Điều đáng lưu ý là ranh giới giữa sự khéo léo, tinh tế, với dĩ hòa vi quý và sự nhu nhược là khá mong manh. Sự quá đà trong đòi hỏi về sự sòng phẳng trắng đen trong lịch sử có thể làm khó, thậm chí đổ vỡ cho các nỗ lực giao hảo. Nhưng đồng thời sự dĩ hòa vi quý sẽ trở nên vô nghĩa, thậm chí nguy hiểm một khi nó bị lạm dụng tới độ né tránh lịch sử, biến tất cả những sự thật của lịch sử thành những điều nhạy cảm và cấm kỵ. Khi ấy, thái độ đó sẽ đồng nghĩa với sự chối bỏ lịch sử, lảng tránh lịch sử, và theo thời gian nó gây ra hệ lụy biến cái chính nghĩa thành phi nghĩa.

TMH, tháng 2-2009

Thursday, 31 July 2008

TIẾN THÀNH (August 01, 2008)



(Mu01b0u1ee3n cu1ea3m hu1ee9ng tu1eeb su1ef1 kiu1ec7n Hu00e0 Nu1ed9i mu1edf ru1ed9ng)

“Không ai là không thể thay thế, nhưng chắc chắn có những người khó thay thế hơn những người khác ».

Câu nói trên dường như rất chính xác để nói về Nghệ sỹ Tiến Thành (1950-1984), giọng hát chủ lực trong các chương trình ca nhạc trên sóng phát thanh của Đài tiếng nói Việt Nam, một viên ngọc sáng trong nền thanh nhạc Việt Nam kể từ cuối thập kỷ 70, đầu thập kỷ 80 của thế kỷ trước. Ngày nay, có thể nhiều bạn trẻ thuộc thế hệ 8x, 9x không còn biết nhiều về cái tên Tiến Thành bởi người nghệ sỹ tài hoa ấy đã mãi mãi đi xa từ ngót một phần tư thế kỷ nay. Tuy vậy, một điều chắc chắn là bất kỳ ai, hễ có chút yêu mến, quan tâm tới dòng nhạc mà tạm gọi là nhạc Đỏ thì đều biết đến, thuộc nằm lòng, thậm chí say mê những bài hát như Nơi đảo xa (Thế Song), Tiếng gọi sông Đà (Trần Chung), chùm ca khúc của Hoàng Vân gồm các bài Tình yêu Hà Nội, Tình ca Tây Nguyên, Tình yêu người thợ mỏ, hay những ca khúc song ca kinh điển như Gửi em ở cuối sông Hồng (Dương Soái & Thuận Yến), Dòng sông quê anh dòng sông quê em (Lai Vu & Đoàn Bổng) ... Đó là một số trong rất nhiều ca khúc đi vào lòng thính giả và còn mãi với thời gian nhờ giọng hát « rất khó thay thế » của nghệ sỹ Tiến Thành.

Sinh năm 1950 tại Nam Định, Nghệ sỹ Tiến Thành là ca sỹ cùng thời với các nữ nghệ sỹ Lê Dung, Thu Hiền, Thanh Hoa, Ái Vân, Vân Khánh, Thúy Lan, Bích Việt ..., các nam nghệ sỹ như Ngọc Tân, Dương Minh Đức, Huy Hùng, Trọng Nghĩa, Hữu Nội..., là thế hệ tiếp nối của thế hệ thứ hai với những Tường Vy, Bích Liên, Tuyết Thanh, Vũ Dậu, Trung Kiên, Quý Dương, Trần Hiếu..., và xa hơn nữa là thế hệ đầu đàn với những Thương Huyền, Khánh Vân, Kim Oanh, Tân Nhân, Mai Khanh, Trần Thụ, Quốc Hương, Văn Hanh ... Nếu hệ thế hệ thứ nhất và thế hệ thứ hai đã xây dựng nên những tượng đài của nền âm nhạc cách mạng Việt Nam với những bản anh hùng ca và tình ca bất hủ trong suốt hai cuộc kháng chiến thần thánh của dân tộc thì thế hệ ca sỹ thứ ba mà Tiến Thành là đại diện tiêu biểu là thế hệ kế thừa, phát huy những giá trị âm nhạc của của các thế hệ đi trước, đồng thời là thế hệ cất lên những tiếng hát ngợi ca non sông đã thu về một mối, tiếng hát của thời kỳ dựng xây lại đất nước với biết bao đam mê, kỳ vọng và cũng đầy rẫy những khó khăn thách thức lòng người.

Trong bài Đất nước, Tạ Hữu Yên viết Mẹ Việt Nam « ba lần tiễn con đi, hai lần khóc thầm lặng lẽ ». Rất có thể con số 3 và số 2 ở đây là những con số có tính tượng trưng vì trong suốt chiều dài lịch sử của dân tộc mình, Mẹ Việt Nam đã nhiều hơn ba lần tiễn con đi và cũng nhiều lần khóc thầm lặng lẽ. Nhưng nếu đó là hình ảnh Mẹ Việt Nam của thế kỷ 20 thì lần thứ 3 Mẹ khóc chính là lúc những đứa con của Mẹ phải ra đi để bảo vệ những miền biên ải ở hai đầu đất nước. Và nếu như thế hệ thứ nhất của Quốc Hương, Mai Khanh là thế hệ của Điện Biên, của 9 năm, thế hệ thứ hai của Bích Liên, Vũ Dậu, Trung Kiên là thế hệ của những « giải phóng quân xẻ dọc Trường Sơn» thì thế hệ nghệ sỹ thứ 3 của Tiến Thành chính là thế hệ cất tiếng hát và trưởng thành từ cuộc chiến đấu vì lý tưởng « độc lập, tự do » của cả dân tộc.

Ngày nay, bạn trẻ yêu nhạc cách mạng nào cũng có thể dễ dàng liệt kê hàng chục, thậm chí hàng trăm ca khúc ra đời trong hai cuộc chiến tranh Việt Nam. Nhưng nếu có điều kiện nghe lại hoặc được cha anh kể chuyện các bạn cũng có thể kể ra cả trăm ca khúc ra đời giữa những ngày nóng bỏng nhất của « cuộc chiến giữa những người anh em Đỏ ». Đó là những bản tráng ca cũng rực lửa hờn căm, ngập tràn hào khí như « Tiếng súng đã vang trên bầu trời biên giới » (lời trong ca khúc của Phạm Tuyên), Đường lên biên giới (Lê Mây), Bài ca biên giới anh hùng, Chiến thắng vinh quang (Nguyễn Đức Toàn), Ý chí Diên Hồng (Lưu Hữu Phước), Không được đụng đến Việt Nam (Phan Nhân), Bốn mươi thế kỷ cùng ra trận (Hồng Đăng), Bảy Núi (Hoàng Hiệp) ... đến những bản tình ca lay động lòng người như Gửi em ở cuối sông Hồng (Thuận Yến), Chiều biên giới (Trần Chung), Tình ca tuổi trẻ (Tôn Thất Lập), Tiếng đàn bên bờ sông biên giới (Phạm Tuyên)... Và có một điều hết sức đặc biệt là rất nhiều trong số hàng trăm ca khúc giai đoạn này đều gắn liền với tiếng hát của nghệ sỹ Tiến Thành. Tiến Thành là người lĩnh xướng hoặc nam ca sỹ hát song ca hầu hết các ca khúc của giai đoạn này. Vì thế, hoàn toàn không quá lời nếu ai đó nói Tiến Thành là « ca sỹ thế hệ chống bành trướng ». Nhưng cũng chính vì thế nhiều người nói Tiến Thành ... thiệt thòi bởi sau này, do điều kiện lịch sử, hầu hết các ca khúc ra đời trong thời kỳ này không còn được phổ biến nữa.

Là ca sỹ của Đoàn ca nhạc Đài Tiếng nói Việt Nam, cái nôi nuôi dưỡng lớp lớp các nghệ sỹ hàng đầu của Việt Nam suốt hơn nửa thế kỷ qua, nếu theo cách nói tương đối mang tính phê phán hiện nay thì sẽ có người gọi Tiến Thành là một « công chức đi hát ». Bởi lẽ trong một thời kỳ mọi thứ đều được thực hiện theo kế hoạch, theo phân công công tác và đều được bao cấp từ vật chất đến tinh thần thì ngoài những cảm xúc xuất thần, vô tư, trong sáng và cao cả, thì cũng có cả những cảm xúc được tạo ra theo tem phiếu, theo lịch công tác và bảng chấm công, hoàn toàn đặc trưng cho một thời kỳ lịch sử. Nếu có dịp nghe lại các băng tư liệu của Tiến Thành, chúng ta sẽ không khỏi tủm tỉm cười khi nghe ca từ của những bài như « Mùa tôm gọi », « Em về hồ nuôi cá», « Nói với em về Đảng », « Đảng dệt mùa xuân » ...

Ở Đoàn ca nhạc Đài Tiếng nói Việt Nam, con đường ca hát chuyên nghiệp theo kiểu công chức của Tiến Thành không phải là con đường bằng phẳng ngay từ đầu. Trong những năm đầu (từ khoảng 1976 đến 1978) Tiến Thành hầu như chỉ được đứng trong dàn đồng ca, hợp xướng. Phải từ năm 1979-80 người ta mới thấy Tiến Thành hát lĩnh xướng và song ca, rồi mới đến đơn ca. Đặc biệt, những năm đầu 80, các bạn nhỏ cả nước không thể quên giọng nói và tiếng hát của thầy giáo Tiến Thành trong các chương trình dạy nhạc, dạy hát trên đài phát thanh Tiếng nói Việt Nam.

Nghe Tiến Thành hát từ những bản tráng ca, lĩnh xướng trong dàn hợp xướng, với dàn nhạc giao hưởng, những bản tình ca hát cùng dàn nhạc nhẹ, cho đến những « ngành ca, địa phương ca » thuần túy theo phân công công tác, người ta đều cảm nhận được một giọng hát hết chỉn chu, chuẩn mực có nền tảng thanh nhạc vững chắc. Tiến Thành có làn hơi khỏe, chắc, đầy đặn, âm vực rộng. Có những nghệ sỹ mà đẳng cấp của họ thể hiện ở khả năng chuyển giọng, có kỹ thuật vững vàng nhưng lại không bị gò bó bởi kỹ thuật. Ở các nữ nghệ sỹ thì Lê Dung là một trường hợp điển hình. Còn Tiến Thành là trường hợp điển hình trong các nam nghệ sỹ. Tiến Thành có thể hát hết sức kinh viện trong Người Hà Nội (Nguyễn Đình Thi), Hồ Chí Minh giai điệu bốn mùa (Trần Chung),Lá xanh (Hoàng Việt). Nhưng rồi Tiến Thành ngay lập tức lại có thể thiết tha, nồng nàn, trải rộng cảm xúc đến độ mênh mang như sóng biển như trong bài Nơi đảo xa (Thế Song), Hát cùng trời nước Hạ Long (Tân Huyền).... Giọng Tiến Thành đằm thắm, nồng đượm trong các bản tình ca như Hương thầm (nhạc Thanh Phúc, thơ Phan thị Thanh Nhàn), Tình yêu Hà Nội (Hoàng Vân). Rồi Tiến Thành lại rất sôi nổi, trẻ trung trong những ca khúc nhạc nhẹ như Hà Nội những công trình (Quốc Trường), Tình yêu người thợ mỏ (Hoàng Vân). Tiến Thành còn hát rất nhiều làn điệu dân ca của các vùng miền khác nhau. Tiến Thành hát quan họ đặc biệt hay. Thỏa nỗi nhớ mong mà ông song ca cùng liền chị Thanh Hiếu là một làn điệu quan họ mẫu mực.

Để thành công trong xử lý ca khúc, ngoài giọng hát, điều tối quan trọng là nghệ sỹ có khả năng tiết chế cảm xúc và tạo ra những mảng sắc thái khác nhau (nuance) giữa các phần của một ca khúc, thắt, mở, cao trào... Tiến Thành hết sức xuất sắc trong việc làm này, khiến người nghe luôn giữ được cảm giác hào hứng khi đón nhận những bài hát do nghệ sỹ này thể hiện. Đặc biệt, Tiến Thành có thể hát bằng cả giọng tenor (nam cao) rất hùng tráng, khoáng đạt hoặc baritone (nam trung) rất đằm thắm, êm ái . Ở cả hai giọng Tiến Thành đều mang đến cho người nghe cảm giác về một giọng hát hết sức vừa vặn với từng ca khúc. Tiến Thành cũng hát giả thanh (fausette) rất hoàn hảo. Đây là một kỹ thuật khó trong thanh nhạc đối với nam ca sỹ vì nếu không xử lý tốt giọng sẽ bị biến thành « giọng mái ». Tựu chung lại, những người yêu ca hát cảm nhận ở Tiến Thành không chỉ một giọng hát đẹp, có sức truyền cảm đặt biệt mà còn ở cảm xúc lãng mạn, tinh khôi. Tuy vậy, ở một số ca khúc, Tiến Thành cũng thể hiện một ‘tật’ nhỏ đó là việc dồn hơi lên mũi hơi sớm ở cuối câu hát, tạo ra cảm giác « hát đóng âm cuối ». Nhưng nhiều người lại coi đó là nét đặc biệt của Tiến Thành.

...

Một ngày cuối năm 1984, công chúng yêu văn nghệ bàng hoàng hay tin về một vụ tai nạn giao thông thảm khốc mà nạn nhân là các nghệ sỹ của Đoàn Ca nhạc Đài Tiếng nói Việt Nam đi trên một chiếc xe ca trên đường lưu diễn phục vụ đồng bào tại một địa phương phía Bắc. Nghệ sỹ hát Chèo lừng danh Như Hoa đã qua đời ngay khi chiếc xe nạn. Nghệ sỹ Thúy Lan khi đó bị bất tỉnh. Những người chứng kiến vụ tai nạn thấy Nghệ sỹ Tiến Thành tuy bị thương nhưng vẫn rất cố gắng đỡ các bạn đồng nghiệp bị thương lên băng-ca đi cấp cứu. Tuy nhiên chỉ sau đó vài giờ, Tiến Thành đã quỵ xuống và rồi người nghệ sỹ ấy đã ra đi mãi mãi... « Người nghệ sỹ lãng mạn ấy đã vĩnh biệt chúng ta quá sớm... Anh để lại nỗi tiếc thương vô hạn trong lòng bạn bè, đồng nghiệp và nhưng người yêu ca hát » (Dihavina). Chắc chắn còn quá nhiều kế hoạch Tiến Thành chưa kịp thực hiện và những người yêu ca hát hoàn toàn có quyền nói về nhiều tốt lành cho nền âm nhạc nước nhà mà Tiến Thành có thể còn tiếp tục cống hiến « giá như, giá như, và giá như »...

Cũng may, năm 1984 là năm kỷ niệm 30 giải phóng thủ đô, Đài tiếng nói Việt Nam tổ chức remix và phát động sáng tác hàng các ca khúc mới về Hà Nội. Những tác phẩm cuối của Tiến Thành, có thể vì lý do đó hoăc có thể hoàn toàn ngẫu nhiên, đều là các bài hát về Hà Nội. Và như thường lệ, Tiến Thành lại trở thành người hát nhiều nhất và hay nhất về Hà Nội thời kỳ đó với Người Hà Nội (hát cùng Tuyết Nhung và Hợp xướng Đài) ; Tình yêu Hà Nội (Hoàng Vân-hai versions với hai cách phối khí khác nhau) ; Hà Nội bài ca năm tháng (Cát Vận) ; Hà Nội những công trình (Quốc Trường, lĩnh xướng cùng Thúy Lan) ; Hà Nội những tầng cao (Văn An, song ca cùng Quỳnh Liên) ... Cho đến nay các ca khúc này đã được nhiều ca sỹ thể hiện lại với nhiều phong cách khác nhau nhưng với nhiều người bản Người Hà Nội do Tiến Thành thể hiện là bản hay nhất từ xưa đến nay. Còn Tình yêu Hà Nội thì đúng là tác phẩm mà Hoàng Vân viết riêng cho Tiến Thành. Và như thế, Tiến Thành còn được coi là một « Người Hà Nội » đích thực.

Tiến Thành ra đi để lại gần 300 ca khúc thuộc nhiều thể loại hiện còn lưu trữ trong Đài Tiếng nói Việt Nam cũng như bộ sưu tập cá nhân của nhiều người mộ điệu. Nhưng người nghệ sỹ ấy cũng để lại một khoảng trống không dễ bù lấp trong lớp đồng nghiệp cùng thời và cả những lớp sau đó. Có lẽ thanh nhạc là như vậy, dù cho có khuôn mẫu, có bàn bản, thì đây vẫn chủ yếu là thứ nghệ thuật gần như vô hình của làn hơi, của âm thanh, của cảm xúc mà trời cho người này nhưng chẳng cho người khác, thậm chí cho một lần và không bao giờ cho lại, cũng giống như người ta không thể tắm hai lần trên cùng một dòng sông vậy. Sau này bạn yêu nhạc thấy Trung Đức hát lại nhiều bài hát Tiến Thành đã thể hiện, cũng rất thành công nhưng vẫn là Trung Đức mà không phải là Tiến Thành. Trong số các ca sỹ trẻ thì Trọng Tấn cũng hát nhiều ca khúc gắn với tên tuổi của Tiến Thành và cũng được thính giả đón nhận nồng nhiệt. Nhưng Trọng Tấn khác xa Tiến Thành vì nhiều lẽ. Gần đây, trong giải Sao Mai 2007, giới chuyên môn cũng liên hệ giọng hát của quán quân Lê Anh Dũng với Tiến Thành. Họ thật có lý. Tuy nhiên, những sự liên hệ như vậy cũng chỉ để khẳng định thêm một lần và nhiều lần khác nữa, rằng « có những người khó thay thế hơn những người khác ».

(TMH, 1-8-2008)

Saturday, 26 July 2008

Và bài ca viết tiếp (for July 26, 2008)



BÀI CA CHƯA VIẾT HẾT

Tôi viết tặng em

Từ những bài ca yêu

Đến những bài ca say

Những bài ca tôi viết tặng em

Nhưng còn đang dang dở

Vì cuộc đời còn những ước mơ.

Tôi viết tặng em

Bài ca chưa viết hết

Thì người đồng chí hy sinh.

Và bài ca tôi viết tiếp

Có bão tố chiều nay

Có căm thù rực cháy

Có cuộc đời tôi nay.

Và bài ca tôi viết tặng em chưa viết hết

Vì đường đời còn bước, còn say.

Nguyễn Mạnh Thường (tháng 8- 1980)

Friday, 18 April 2008

Hạ Long & những bài ca (April 19, 2008)



1. Bình minh đang lên. Hạ Long muôn màu. Từng đoàn thuyền ra khơi. Cánh buồn xa vời. Đi trong sớm mai đây, bạn nghe chăng bản tình ca mới! (Hoàng Vân- NSƯT Tiến Thành- 1980)

Archives: Tiếng hát Ngọc Tân (1980); tiếng hát Ngọc Hương (1983); tiếng hát Đức Lộc (1983)

2. Mỗi lần tôi hát về Vịnh Hạ Long là tôi như thấy xốn xang trong lòng. Vùng biển ấy trời nước mênh mông. Cánh buồm lướt gió ra khơi bốn mùa nghe tiếng hát... (Hát cùng trời nước Hạ Long- Dân Huyền- NSƯT Tiến Thành)

3. Hạ Long ơi, phải chăng thần tiên xuống đây. Kìa xa xa Tuần Châu. Đẹp mênh mang Bồ Nâu. Đẹp muôn màu... (Nhớ mãi Hạ Long- Vũ Thanh- NSƯT ÁI VÂN- 11/1989)

4. Tôi về đây nghe sóng. Sóng hát tình yêu đầu. Từ trong trái tim tôi, buồn no gió ra khơi. Hạ Long, Hạ Long ơi (Tôi về đây nghe sóng- Nguyễn Cường- HỒNG NHUNG- 11/89)

Bà Tôn Nữ Thị Ninh:

"Hạ Long bị loại - bài học về giá trị thực, ảo"
01:57' 19/04/2008 (GMT+7)

img - Bà Tôn Nữ Thị Ninh, nguyên Phó chủ nhiệm Ủy ban đối ngoại của Quốc hội, có ý kiến quanh sự kiện bầu chọn và việc vịnh Hạ Long bị tạm loại khỏi danh sách 7 kỳ quan mới của thế giới.

img
Bà Tôn Nữ Thị Ninh. Ảnh: V.T

Chúng ta nói nhân sự kiện bầu chọn 7 kỳ quan thiên nhiên thế giới này để quảng bá Việt Nam, nhưng phải chăng chúng ta đã làm hơi quá đà, thưa bà?

- Tổ chức UNESCO đã chính thức công nhận vịnh Hạ Long là di sản thiên nhiên thế giới, có nghĩa địa danh này đã đạt đỉnh cao rồi thì bỗng dưng lại có cuộc bầu chọn gì đó và chúng ta hô hào nhau bầu chọn lại.

Hai giá trị này đã bị lẫn lộn. UNESCO đã xem xét vịnh Hạ Long theo những tiêu chí rõ ràng, nghiêm ngặt, công bằng, còn cuộc bầu chọn này hên xui may rủi, tiêu chí không rõ ràng. Giả dụ người Trung Quốc cũng nhảy vào bầu chọn như ta, thì danh sách 7 kỳ quan thế giới sẽ chỉ có 7 kỳ quan của Trung Quốc theo logic số lượng người bầu chọn.

Cuộc chơi nghiêm túc, rộng rãi, chắc chắn nhất chúng ta đã tham gia và đã đạt được thành quả, vậy thì vì sao lại nhảy vào cuộc chơi này, đó là thắc mắc lớn nhất của tôi. Chúng ta ngơ ngác nhảy vào một cuộc chơi mà lợi ích của chúng ta hầu như không có. Đã đạt danh hiệu hoa hậu thế giới rồi mà lại đi dự thi một cuộc thi hoa hậu ảo nào đó thì tôi không hiểu để làm gì.

TIN LIÊN QUAN
Tôi cho rằng tinh thần yêu nước không nhất thiết phải thể hiện trong sự kiện này. Nói nếu yêu nước, hãy bầu chọn cho vịnh Hạ Long, thì đó là một thông điệp chưa chuẩn, một lời kêu gọi không đúng chỗ, không đúng lúc. Tôi không tham gia bầu chọn, vì vậy mà bảo tôi không yêu nước hay sao?

Điều tôi muốn biết nhất là có bao nhiêu người nước ngoài bầu chọn cho vịnh Hạ Long, nhiều nhất là ở nước nào. Chứ nói người Việt bầu cho vịnh Hạ Long nhiều nhất thì cũng như người Pháp bầu cho tháp Eiffell nhiều nhất. Mèo khen mèo dài đuôi, thì hơi thiếu tinh tế và khó thuyết phục.

Việc quá hào hứng chạy theo phong trào với việc vi phạm luật chơi, cái nào đáng phê phán hơn, thưa bà?

- Chúng ta rất hăng hái theo phong trào, chưa suy nghĩ thật chín chắn và ngây thơ trước cuộc chơi này. Mà phong trào ở đây cũng chỉ liên quan đến internet là chính. Một nước có kỳ quan thiên nhiên đẹp nhưng lạc hậu về viễn thông thì dân họ làm sao đi bầu bằng chúng ta?

Nếu không có sự cố này, và vịnh Hạ Long nằm trong top 7, thì việc công nhận của UNESCO với việc trụ lại trong top 7 kỳ quan mới, là hai tầm mức, hai thước đo khác nhau. Gọi là tôm hùm với tép cũng không đúng lắm nhưng rõ ràng là một cái thực chất và một cái ít thực chất. Dù UNESCO không phải đã được ủng hộ 100% trong các lựa chọn của mình nhưng với cả quá trình xem xét lật đi lật lại của họ, chắc chắn kết luận đó phải mang một giá trị cao, rộng hơn.

Chúng ta không nên đặt quá nhiều kỳ vọng và tốn công sức vào cái danh hiệu mà nếu có đạt được đi nữa thì ý nghĩa của nó thấp và nhỏ hơn nhiều.

Các mốc sự kiện bầu chọn 7 kỳ quan:
- Ngày 14/4/2008: Tổ chức New Open World loại vịnh Hạ Long ra khỏi danh sách bầu chọn 7 kỳ quan trên trang web của mình, dù địa danh này đang dẫn đầu
- Ngày 9/4/2008: Phong Nha - Kẻ Bàng và Phanxipăng bị gỡ tên ra khỏi danh sách
- Ngày 20/2/2008: Vịnh Hạ Long vươn lên vị trí thứ nhất trong 77 kỳ quan
- Ngày 23/12/2007: Bộ Ngoại giao, Bộ Văn hóa - Thể thao và Du lịch cùng UBND tỉnh Quảng Ninh chính thức phát động cuộc vận động bầu chọn cho vịnh Hạ Long

Tự dưng bị một vố thế này chúng ta mới tỉnh người ra, mới nhìn kỹ nhà tổ chức là ông nào chứ lúc đầu thì cứ phiên phiến. Sự việc này nói lên rằng nước ta trong thời hội nhập còn phải tiếp tục trưởng thành hơn nữa.

Chúng ta nhanh chân hội nhập đồng thời cũng rất hấp tấp, thiếu suy xét. Chúng ta nên rút kinh nghiệm để không bị hớ nữa về sau.

Thưa bà, đây sẽ là một bài học cảnh tỉnh cho việc chạy theo những giá trị kém thực chất? Nó không đắt về mặt tiền bạc, nhưng rất đắt về tính chuyên nghiệp, ứng xử và hiểu biết luật chơi quốc tế của chúng ta?

- Thế giới bên ngoài họ lên mạng, vào blog và biết câu chuyện này, chuyện vịnh Hạ Long đã là di sản thiên nhiên thế giới rồi mà còn đi làm phong trào bầu chọn vào 7 kỳ quan mới để đến độ vi phạm bản quyền. Chúng ta sẽ trở nên buồn cười trong mắt họ.

Dùng chữ phong trào là để phân tích khách quan sự việc, chứ bên ngoài họ nghe chúng ta vận động toàn dân bầu chọn cho vịnh Hạ Long, tôi nghĩ họ sẽ ngạc nhiên rằng chúng ta bỏ công sức như thế để làm gì.

Chúng ta thích danh hiệu, đã có danh hiệu cao nhất, vẫn muốn có danh hiệu nữa, tuy rằng thấp hơn. Vẫn còn nhiều phong trào thiết thực, quan trọng hơn để làm, chẳng hạn như làm sao đừng để trẻ em bị bạo hành, bỏ học...

Tôi hy vọng đây là một bài học cảnh tỉnh. Xã hội chúng ta phát triển với tốc độ khá cao và nó dễ làm bào mòn, lẫn lộn một số giá trị, ưu tiên hình thức hơn thực chất... Hy vọng việc này sẽ giúp cho không ít người rút ra một nhận định, một bài học có ích.

Xin cảm ơn bà.

  • Võ Tiến thực hiện

Friday, 29 February 2008

Hát cùng trời nước Hạ Long (February 29, 2008)



Hát cùng trời nước Hạ Long- Sáng tác: Tân Huyền

Với tiếng hát của NSƯT Tiến Thành (tháng 3/1982)

Theo Công ước Quốc tế 1972 mà Việt Nam là một trong những quốc gia thành viên, để một địa danh hay tài sản trở thành một Di sản Văn hóa thế giới (World Cultural Heritage) hoặc Di sản thiên nhiên thế giới (World Natural Heritage) hay Di sản hỗn hợp (mixed site hay Cultural Landscape) thì phải trải qua một quá trình hết sức công phu, tỉ mỉ và khó khăn, bao gồm các bước:

Bước 1 là di sản đó phải là Di sản quốc gia và năm trong Danh sách dự kiến (Tentative List) nộp trước cho UNESCO;

Bước 2 là lập hồ sơ khoa học đề cử với sự trợ giúp của các chuyên gia trên khắp thế giới;

Bước 3 là việc thẩm định hồ sơ do một cơ quan tư vấn độc lập (độc lập với cả quốc gia và độc lập với cả UNESCO)- đó là ICOMOS đối với các hồ sơ văn hóa & IUCN đối với các hồ sơ thiên nhiên. Sau khi thẩm định, cơ quan tư vấn này sẽ đưa ra khuyến nghị, nhận xét về việc đáp ứng các tiêu chí mà Công ước quy định của khu di sản. Khuyến nghị của ICOMOS và IUCN có giá trị vô cùng to lớn.

Bước 4 là việc phản biện và bảo vệ Hồ sơ đề cử đã được ICOMOSIUCN thẩm định trước Ủy ban Di sản Thế giới . Nếu được bảo vệ thành công, hồ sơ sẽ được Ủy ban di sản Thế giới thông qua và di sản đó trở thành Di sản thế giới.

Chú ý :

Ủy ban Di sản Thế giới căn cứ vào khuyến nghị của ICOMOS và IUCN, đồng thời căn cứ vào hệ thống các tiêu chí quy định trong Công ước 1972 và các văn bản hướng dẫn thực hành để thông qua Nghị quyết công nhận Di sản Thế giới.

Có 5 tiêu chí áp dụng cho các di sản văn hóa ; 4 tiêu chí áp dụng cho các di sản thiên nhiên. Có hai loại điều kiện là Điều kiện CẦN và Điều kiện ĐỦ để các di sản được công nhận. Chỉ cần đáp ứng 1 trong 4 tiêu chí (đối với thiên nhiên) hay 1 trong 5 tiêu chí (đối với văn hóa) là Di sản đã đáp ứng được điều kiện CẦN.

Tuy nhiên để đáp ứng điều kiện ĐỦ thì đối với các Di sản Thiên nhiên phải đáp ứng được tính toàn vẹn (Integrigty), tức là không bị xâm hại, không bị cắt xén và các Di sản Văn hóa thì phải đáp ứng được tính Chân thực (Authenticity), tức là nguyên gốc, không phải là đồ dởm, tân trang. Trong điều kiện ĐỦ này còn có một phần quan trọng nữa là Quốc gia đề cử phải trình bày thuyết phục trước Ủy ban Di sản Thế giới một Kế hoạch tổng thể nhằm Bảo tồn và Phát huy bền vững các giá trị Di sản.

Chúng ta có Quần thể Di tích Cố đô Huế (văn hóa), Vịnh Hạ Long (thiên nhiên), Đô thị cổ Hội An (văn hóa), Khu di tích Mỹ Sơn (văn hóa), và Vườn Quốc gia Phong Nha- Kẻ Bàng (thiên nhiên) là Di sản Thế giới một cách không đơn giản chút nào. Thời gian chuẩn bị hồ sơ kéo dài cả chục năm. Phải nhờ rất nhiều đến tài năng và tâm huyết của các chuyên gia và các nhà ngoại giao thì mới có được những gì chúng ta đang có.

Trong hai di sản thiên nhiên của chúng ta thì Hạ Long mới chỉ đáp ứng được 2 trên tổng số 4 tiêu chí, đó là tiêu chí về cảnh quan (được công nhận ngay từ lần đầu, chứng tỏ Hạ Long rất đẹp, Thế giới đã công nhận rồi) và tiêu chí về địa chất địa mạo (phải lần làm hồ sơ thứ 2, Hạ Long mới được công nhận theo tiêu chí này). Còn vườn Quốc gia Phong Nha Kẻ Bàng chỉ mới được công nhận theo tiêu chí địa chất địa mạo liên quan đến lịch sử hình thành trái đất, chứ chưa được công nhận về vẻ đẹp cảnh quan . Và nếu không có các nhà ngoại giao của Việt Nam thì con đường tới Di sản có lẽ còn dài và khó khăn hơn rất nhiều.

Trên thế giới hiện nay có tới 851di sản thiên nhiên và văn hóa thế giới đã được UNESCO công nhận. Trong đó CÓ NHỮNG DI SẢN ĐÁP ỨNG CÙNG LÚC TẤT CẢ CÁC TIÊU CHÍ. Nhưng không vì thế mà UNESCO phân biệt thức bậc hay lập các Top List. Cho nên không có 5 hay 7 hay 10 Di sản hàng đầu thế giới hay hạng bét của Thế giới.

Thế nhưng lại có những di sản bị đưa vào Danh mục các Di sản trong tình trạng nguy hiểm (List of World Heritage in Danger) và có nguy cơ bị đưa ra khỏi Danh mục Di sản Thế giới. Chuyện đó hoàn toàn dễ hiểu vì việc một di sản đáp ứng được 1 tiêu chí không có nghĩa là nó sẽ đáp ứng vĩnh viễn tiêu chí đó. Nhất là tính toàn vẹn và tính chân thực, một khi quốc gia không có kế hoạch phát huy đi kèm với bảo tồn thỏa đáng. Ngoài ra lý do thiên tai, địch họa cũng khiến một Di sản bị mất vị trí của mình. Việc này được UNESCO theo dõi sát sao và thường xuyên chất vấn các chính phủ cũng như trợ giúp họ cải thiện tình hình. Huế của chúng ta đã từng năm trong Danh sách nguy hiểm do lũ lụt. Phong Nha Kẻ Bàng vẫn thường xuyên phải báo cáo về cải thiện môi trường.

Vịnh Hạ Long vẫn còn tiềm năng để UNESCO công nhận về giá trị Đa dạng sinh học, cũng như những tiềm năng giá trị về lịch sử, văn hóa để UNESCO có thể công nhận dây là một Di sản Thế giới hỗn hợp- một Cultural Landscape của Thế giới (hiện thế giới chưa có nhiều loại di sản này). Tuy nhiên, UNESCO cũng vẫn lưu ý chúng ta về nguy cơ Hạ Long bị đe dọa bởi ô nhiễm môi trường do phát triển đô thị, công nghiệp, du lịch chưa được quản lý thật tốt dẫn tới nguy cơ phá vỡ cảnh quan và giá trị toàn vẹn của khu Di sản vô giá này.

Tôn vinh, khai thác các giá trị Di sản đi kèm với việc bảo tồn bền vững cho các thế hệ tương lai luôn là vếc-tơ hiệu quả nhất. Đây là một quá trình khoa học, bền bỉ, có chiến lược, có chương trình hành động cụ thể, có sự quản lý thống nhất của các cấp chính quyền cũng như dựa vào sự tham gia của toàn thể cộng đồng. Vì thế công việc này hoàn toàn không đơn thuần là vấn đề tình cảm nhất thời, mang tính phong trào...