Showing posts with label tưliệu. Show all posts
Showing posts with label tưliệu. Show all posts

Monday, 18 May 2009

Bác Hồ một tình yêu bao la (May 19, 2009)

1. Hai trích đoạn đặc biệt: Phần 1- NSND Thanh Hoa hát đơn ca cùng Dàn nhạc dây Đài TNVN năm 1980; Phần 2- NSND Thanh Hoa hát cùng Hợp xướng và Dàn bán cổ điển Đài TNVN năm 1982; Phối khí và chỉ huy: Nhạc sỹ Lê Đình Lực.

2. NSND Thanh Hoa hát Bác Hồ một tình yêu bao la với nhạc điện tử

3. NSND Thanh Hoa hát Bác Hồ một tình yêu bao la trong Con đường Âm nhạc: Thuận Yến & Khát Vọng (2007)

4. NSND Thanh Hoa hát Vầng trăng Ba Đình trong Con đường Âm nhạc: Thuận Yến & Khát vọng (2007)

Saturday, 9 May 2009

Thời thanh niên sôi nổi (May 09, 2009)

песня о тревожной молодости - Thời thanh niên sôi nổi - dành cho 9-5

Wednesday, 29 April 2009

Tổ quốc yêu thương (April 30, 2009)

Sáng tác: Hồ Bắc

Ca sỹ: NSƯT Ái Vân

Pianist: Hoàng My

Friday, 17 April 2009

Làng lúa làng hoa (April 17, 2009)

Tư liệu minh họa: Mùa xuân Làng lúa Làng hoa với tiếng hát của NSND Thanh Hoa trên sóng phát thanh Đài Tiếng nói Việt Nam tháng 1-1981.

Thành phố "đói" hoa

08:50' 16/04/2009 (GMT+7)

img- Một thành phố "Làng lúa làng hoa" qua giọng hát ngọt ngào của Thanh Hoa làm người nghe chợt nhớ về Hà Nội thuở nào. "Bên lúa, anh bên lúa, cánh đồng ven đê//Hồ Tây xanh mênh mông, trong tươi thắm nắng chiều//Làng em làng hoa, hoa thơm ngát bốn mùa//Hồ Tây đôi bên, trong tình yêu hoa lúa rộn ràng". Thế mà cư dân thành phố ấy từng ăn bo bo, nay tuy thừa gạo, nhưng lại "đói" hoa, mặt nước Hồ Tây không còn xanh nữa, đồng lúa cũng biến đi. Mới hiểu tại sao, vài cành hoa anh đào Nhật Bản mà thu hút mấy trăm ngàn người tới xem.

img
Hoa anh đào - Ảnh: Hiệu Minh

Tôi nhớ thời Hà Nội đi sơ tán, rất nhớ chi tiết trong một bài báo. Hồi đó không có điện thoại, internet, thư từ trong nước đi cả tháng mới đến. Bố mẹ đi khỏi thành phố, sợ con trai đi bộ đội về thăm bất chợt, để mẩu giấy trên cửa: “Bố mẹ và em sơ tán về Hưng Yên. Nếu con về, tìm chìa khóa dưới thảm chùi chân”. Ba tháng sau, gia đình quay về, trong nhà không mất mát thứ gì.

Hòa bình, nhà cao tầng lắp ghép được xây cao, soi bóng diễm lệ bên hồ Thành Công hay Giảng Võ. Những ban công xinh xắn để cư dân nhìn hoàng hôn buông xuống hay ngắm trăng lên.

Nhưng rồi sự bất an do những vụ ăn cắp ngày đêm gây ra. Khi cái áo, khi cái quần, rồi có kẻ ngang nhiên trèo qua ban công vào lấy hết đồ đạc quí. Những căn hộ sang trọng ấy phải thêm “chuồng cọp”. Sau này dân ta sáng kiến hơn, biến thành những gác xép, phòng nhô ra, thò thụt làm cho khu nhà lắp ghép nhếch nhác và bẩn thỉu.

Ngày nay, những ngôi nhà trên khu phố mới, càng giầu thì càng kín cổng cao tường. Kẽm gai mấy vòng tua tủa, mác nhọn hoắt trên các bờ tường, cắm mảnh chai sắc như dao cũng không ngoài mục đích ngăn trộm đột nhập mà trong ngôi nhà đó có thể là một thế giới riêng đẹp như mơ.

Tường cao che chắn những villa cho thấy quốc gia đang đi lên về kinh tế nhưng văn hóa có thể đã thụt lùi. Xã hội văn minh được đánh giá qua hàng rào sơ sài quanh nhà ở mang tính trang trí nhiều hơn là chống trộm.

img
Hồ Tidal Basin (Washington DC) vào mùa hoa anh đào - Ảnh: Hiệu Minh

Mấy hôm nay, “chuồng cọp” lại xuất hiện cả trong những sự kiện văn hóa. Tâm điểm lễ hội Nhật Bản ngày 12-4-2009 là 6 cây anh đào thật từ xứ Phù Tang cho dân ta chiêm ngưỡng. Người ta phải rào hoa, huy động tới 500 người bảo vệ. Nhìn sắc phục cảnh sát dưới bóng hoa anh đào thấy lo lắng thay cho một nền văn hóa đang xuống cấp.

Năm ngoái đã có chuyện cướp ở hội hoa. Năm nay rút kinh nghiệm, rào “mềm” và cảnh sát dầy đặc. Rất may, hoa héo, lá tàn và sắc phục nhà chức trách nên không thấy ai dám thò tay. Một người khiếm thị lấy tay thử, nhưng tội cho anh lại sờ vào hoa giả và bị lôi đi.

Thành phố no ăn nhưng lại “đói hoa” dù tiềm năng ấy có thừa. So sánh anh đào Nhật Bản và đào Nhật Tân, mỗi loài có một vẻ đẹp riêng và khó mà nói rằng hoa xứ người rực rỡ hơn ta. Tại sao hoa của họ lôi cuốn được hàng triệu người.

Ở nhiều nước, vườn hoa, phố hoa, công viên hoa hay kể cả hồ hoa trong thành phố được thiết kế tổng thể trong một môi trường kiến trúc chan hòa với thiên nhiên. Thêm vào đó là pháp luật chặt chẽ và văn hóa lâu đời được dung dưỡng, phát triển cùng với thế giới hiện đại. Mỗi cây mang đi trồng hay cánh hoa gửi đi triển lãm nước ngoài được nền văn hóa ngoại giao thâm trầm của quốc gia đó gửi gắm, được họ biến thành một thứ hoa đạo.

Hà Nội rất đẹp với những hàng cây cổ thụ xanh bốn mùa. Lò Đúc có hàng lim cao chót vót, cò về làm tổ, hàng Bông, hàng Nhuộm hoa bằng lăng tím, rồi dãy phượng vĩ đường Thanh Niên đỏ thắm mùa hè.

img
Đào núi Sapa - Ảnh: Photo.com.vn

Vườn đào Nhật Tân, nếu được giữ nguyên, không bị biến thành chung cư cao tầng thì vẻ đẹp không kém bất kỳ vườn hoa nào trên thế giới. Nếu xung quanh Hồ Tây được trồng đào, phượng vĩ, bằng lăng hay liễu rủ trên mặt nước trong xanh với không gian kiến trúc hài hòa ven bờ thì du khách cũng đến đông hàng triệu, không kém do với mùa anh đào bên Thượng Hải hay hồ Tidal Basin (Washington DC).

Hàng cây hoa lá ấy được trồng trong một thành phố có tổ chức, đường sạch đẹp thì người dân sẽ sống có văn hóa. Có lẽ đến lượt chúng ta mang hoa đi triển lãm. Biết đâu cũng có người “thèm” và vặt hoa Nhật Tân như dân ta bẻ đào Phú Sỹ năm ngoái.

Còn tiếp tục những dự án biến đường phố làm trung tâm thương mại, chiếm đất công viên xây khách sạn dưới danh nghĩa “cam kết quốc tế”, xây sân chơi thành chợ, hay cuộc săn lùng những "tấc đất vàng" cuối cùng đang âm thầm tiến hành thì không còn chỗ nào cho vườn hoa, đường hoa hay hồ hoa. Tệ nạn đói “hoa” vẫn còn tồn tại.

Ai đã từng sang Seoul, Thượng Hải, hay Tokyo về mùa hoa anh đào nở thì sẽ không ra sân Quần Ngựa để thưởng ngoạn hoa và nắng. Dù hoa đẹp đến đâu nhưng không ở trong một ngữ cảnh với thiên nhiên giao hòa thì cũng chỉ như cành đào Sapa mang về căn hộ cao cấp Ciputra, để rồi hoa trở nên đơn độc và lãng xoẹt, như thiếu nữ xinh đẹp múa trước đám dân làng đang đói hoa mắt.

Ngày xưa “đói nghèo sinh nghịch tặc” dễ hiểu. Thời nay, nhiều kẻ giầu nhưng có quyền vẫn tiếp tục ăn cắp do tham nhũng vì “đói” luật pháp. Trộm cây, vặt hoa liên quan đến thứ đói khác, đó là “đói văn hóa”, một căn bệnh không kịp chữa trị, xã tắc sẽ lâm nguy. Tệ nạn này từ nhiều hệ lụy, do nền giáo dục trong gia đình, nhà trường, ngoài xã hội kể cả luật pháp không được thượng tôn. Tham nhũng tràn lan không bị trừng phạt nghiêm khắc cũng là nguyên nhân khác. Người ta ăn cắp nhiều thế thì mình bắt chước với bông hoa có làm sao.

Nhìn xa trông rộng để phát triển đất nước, dân sẽ không đói hoa, cảnh kín cổng cao tường và "chuồng cọp" cũng mất đi. Ngôi nhà rất đẹp nhưng lại rào như trại giam thì khó nuôi dưỡng những tâm hồn lớn bên trong. Cảnh sát nên đi tuần tra bảo vệ cho khu phố không cần khóa cửa khi đi vắng thay vì ngồi gốc cây để bắt kẻ vặt hoa. Hôm nào đó, ta có thể yên tâm để lại lời nhắn bạn như 40 năm trước “Chìa khóa để dưới thảm". Lời hát xưa "tình yêu hoa lúa rộn ràng" thuở nào có thể tìm lại được.

  • Hiệu Minh

Thursday, 2 April 2009

Trịnh Công Sơn và Chính trị (April 03, 2009)

Video minh họa : Cuối cùng cho một tình yêu. Nhạc của Trịnh Công Sơn, Thơ của Trịnh Cung, Khánh Ly hát trong Asia Video số 10 « Thơ & Nhạc »

Bài viết gây chấn động của Họa sỹ Trịnh Cung về Nhạc sỹ tài hoa Trịnh Công Sơn đăng trên Tạp chí Da Vàng ngày 29/3.2009 :

Đã 8 năm kể từ ngày mất của Trịnh Công Sơn, 01-4-2001. Đã có rất nhiều bài và sách viết về người nhạc sĩ tài hoa xuất chúng này. Tất cả đều chỉ nói về 2 mặt: tình yêu (con người, quê hương) và nghệ thuật ngôn từ trong ca khúc Trịnh Công Sơn, tuyệt nhiên không thấy ai đề cập đến vấn đề Trịnh Công Sơn có hay không tham vọng chính trị. Phải chăng như Hoàng Tá Thích, ông em rể của người nhạc sĩ “phản chiến” huyền thoại này đã minh định trong bài tựa cuốn sách Như Những Dòng Sông của mình nói về âm nhạc và tình người của ông anh rể Trịnh Công Sơn, do nhà Xuất Bản Văn Nghệ và Công Ty Văn Hoá Phương Nam ấn hành năm 2007: “…Anh không bao giờ đề cập đến chính trị, đơn giản vì anh không quan tâm đến chính trị”? Hay như nhận định của một người bạn không chỉ rất thân mà còn là một “đồng chí” (trong ý nghĩa cùng một tâm thức về chiến tranh VN) của Trịnh Công Sơn, hoạ sĩ Bửu Chỉ (đã mất) đã viết: “Trong dòng nhạc phản chiến của mình, TCS đã chẳng có một toan tính chính trị nào cả” (Trích bài viết: “Về Trịnh Công Sơn và Những Ca Khúc Phản Chiến Của Anh”, in trong Trịnh Công Sơn, Cuộc Đời, Âm Nhạc, Thơ, Hội Hoạ & Suy Tưởng do Nhà Xuất Bản Văn Hoá Sài Gòn ấn hành năm 2005)?

Sự thực có đúng như câu khẳng định chắc nịch ở trên của ông Hoàng Tá Thích và hoạ sĩ quá cố Bửu Chỉ? Chắc chắn là sai 100% rồi nếu như Trịnh Công Sơn không là tác giả của 3 tập nhạc phản chiến (Ca Khúc Da Vàng, Kinh Việt Nam và Ta Phải Thấy Mặt Trời), và cũng chưa từng tham gia vào Phong trào Đấu tranh Đô thị của Thanh niên Sinh viên Học sinh để chống Mỹ và chính quyền Sài Gòn mà chính cuốn sách của Hoàng Tá Thích và bài viết của Bửu Chỉ vừa nhắc đến ở trên đã có nhiều tiết lộ. Mặt khác, trong bài viết “Có Nghe Ra Điều Gì” Trịnh Công Sơn gửi cho bác sĩ Thân Trọng Minh tức nhà văn Lữ Kiều năm 1973 có đoạn như sau: “…Chưa bao giờ tôi có ý nghĩ tự đề nghị với mình một trách nhiệm quá lớn, nhưng khi đã lỡ nhận chịu những cảm tình nồng hậu từ đám đông, thì những tình cảm kia phải được đền bồi…”. Và trong thư TCS gửi cho Ngô Kha - người bạn cùng chí hướng chính trị và cũng là người em rể, đồng thời là lãnh tụ của Chiến đoàn Nguyễn Đại Thức này đã bị Công An Huế bắt (1972-1974) - chúng ta sẽ dễ nhận ra ý thức làm chính trị chống chế độ Sài Gòn của Trịnh Công Sơn. Nhất là trong đoạn Lê Khắc Cầm nói về mối quan hệ giữa TCS và tổ chức cơ sở thành uỷ Huế do Lê Khắc Cầm bí mật phụ trách trước 1975 như thế nào, thì không thể nói là TCS không có toan tính chính trị như nhận định của hoạ sĩ Bửu Chỉ (Xin xem thêm Thư TCS gửi Ngô Kha và đoạn trao đổi về lá thư này giữa Nguyễn Đắc Xuân và Lê Khắc Cầm trong phần tư liệu đính kèm bài).

Trước khi nêu thêm những dẫn cứ quan trọng hơn để chúng ta có cái nhìn rõ hơn về thái độ chính trị của TCS thời chiến tranh VN, và cũng nhằm cung cấp thêm tư liệu để làm rõ các mối quan hệ có tính dính líu vào hoạt động chính trị phản chiến thân Cộng của TCS, tác giả xin kể một kỷ niệm với Ngô Kha và vì sao Ngô Kha lấy tên cho lực lượng đấu tranh của mình là Chiến đoàn Nguyễn Đại Thức.

Vào năm 1971, tôi có mời Ngô Kha tới dự bữa cơm đầy năm Vương Hương, con đầu lòng của tôi tại nhà ở Phú Nhuận. Sau tàn tiệc, tôi đưa Ngô Kha ra về. Chúng tôi đi bô từ ngã tư Phú Nhuận về hướng cầu Kiệu, khi gần đến chân cầu, Ngô Kha nói với tôi: “Cậu vào chiến khu với mình đi, có người dẫn đường đang chờ”. Tôi không ngờ lại bị Ngô Kha đưa vào thế kẹt. Lúc này, tôi đang là Trung Úy biệt phái dạy tại Trường Cao Đẳng Mỹ Thuật Huế, vừa bị Nha Mỹ Thuật Học Vụ trả về lại Bộ Quốc Phòng vì được Mỹ cấp học bổng tu nghiệp mỹ thuật tại Trung Tâm Đông và Tây, Hawaii, Hoa Kỳ (Sau 1975 tôi mới biết ông Nguyễn Văn Quyện, kiến trúc sư, Giám đốc Nha Mỹ Thuật Học Vụ, người ký quyết định không cho tôi đi Mỹ và trả tôi lại quân đội theo đề nghị của hoạ sĩ Vĩnh Phối - Hiệu trưởng Trường CĐMT Huế, cả 2 đều là Việt cộng nằm vùng), và Ngô Kha đang là em rể của Trịnh Công Sơn, cũng mang cấp bậc thiếu uý Quân lực VNCH có tư tưởng phản chiến, nhưng tôi không biết gì về hoạt động ly khai của anh cho tới lúc này. Thật bất ngờ và căng thẳng, làm sao tôi có thể đi về phía bên kia chiến tuyến? Tôi không hề tham gia vào phong trào phản chiến, tôi chơi với Trịnh Công Sơn, Ngô Kha, Hoàng Phủ Ngọc Tường, Đinh Cường khi họ chưa là người chống lại chế độ Việt Nam Công Hoà. Ngay cả tại “túp lều cỏ” Tuyệt Tình Cốc ở Huế, nơi mà nhà văn Thế Uyên trong một bài viết của anh có tên “Cuộc Hành Trình Làm Người Việt Nam Qua Trịnh Công Sơn” đã tự bạch anh từng đến dự những cuộc họp bàn về đấu tranh chính trị do nhóm Hoàng Phủ Ngọc Tường, Trần Quang Long, Nguyễn Đắc Xuân và Trịnh Công Sơn đứng ra tổ chức, tôi cũng chưa bao giờ đặt chân đến đó và thậm chí không hề biết có những việc như thế. Đơn giản vì tôi rời Huế vào sống ở Sài Gòn sau khi tốt nghiệp Mỹ thuật năm 1962, mối quan hệ giữa tôi và họ chỉ là một tình bạn văn nghệ thuần tuý. Để thối thác lời đề nghị ghê gớm này của Ngô Kha, tôi dừng lại trong bóng đêm bên này cầu Kiệu và nói với anh:”Ông thấy con mình vừa đầy năm, bà xã còn quá trẻ và yếu đuối, làm sao mình bỏ nhà đi vào căn cứ với bạn được. Hơn nữa mình không đồng ý cách giết người của họ ở Huế hôm Tết Mậu Thân… thôi chúc bạn lên đường may mắn!”. Thế nhưng, sự việc sau đó lại đưa Ngô Kha đến một hoàn cảnh khác. Anh không đi vào rừng mà về Huế rồi bị bắt và chịu một cái chết bi thảm.

Về Nguyễn Đại Thức là ai mà Ngô Kha dùng đặt tên cho lực lượng đấu tranh của mình?

Theo Nguyễn Đắc Xuân, Nguyễn Đại Thức nguyên là một hạ sĩ quan quân lực VNCH ly khai đã bắn hụt tướng Huỳnh Văn Cao khi ông dùng trực thăng kiểm soát tình hình Phật giáo xuống đường ở Đà Nẵng và Huế, và đã bị lính Mỹ bắn hạ. Hành động và cái chết của Nguyễn Đại Thức đã đưa Ngô Kha đến sự chọn lựa Nguyễn Đại Thức là tên và biểu tượng cho nhóm quân nhân ly khai đấu tranh chống Mỹ Nguỵ do anh tổ chức. Sau đây là đoạn viết của Hoàng Phủ Ngọc Tường trong Căn Nhà Của Những Gã LangThang: “…Theo tin tức quân báo của Kha nhận từ đoạn Đà Nẵng, thì lực lượng thuỷ quân lục chiến của Kỳ sẽ chĩa mũi nhọn vào những người của phong trào mà họ cho là nguy hiểm, ngay từ lúc họ đặt chân đến Huế để tránh hậu hoạ. Ngô Kha cùng đi với chiến đoàn ly khai của anh sẽ kéo dài cuộc cầm cự trên đèo Hải Vân, để tạo điều kiện cho tôi thoát…”. Đối với cá nhân tôi, nhờ tiết lộ kinh khủng này của Hoàng Phủ Ngọc Tường, những năm gần đây, tôi mới biết mình đã từng bị Ngô Kha dùng tình bạn để đưa vào cái gọi là Chiến đoàn ly khai Nguyễn Đại Thức mà không biết khi anh rủ tôi đi vào cứ như đã nói ở trên. May mà tôi đã từ chối.

Với bao nhiêu sự việc gắn kết với nhau, hoà quyện, ăn khớp, như thế mà chúng ta vẫn còn hoài nghi, vẫn biện bạch đây chỉ là một thứ tình cảm hồn nhiên hay hoa mỹ hơn, đấy là ý thức về thân phận dân tộc, tiếng nói đòi hoà bình đậm tính nhân bản cho quê hương của một người nghệ sĩ tài hoa như TCS, thì chi tiết sau đây đã được Nguyễn Đắc Xuân tiết lộ và đã xác nhận lại với tác giả bài viết này như sau: “Vào đêm ngày 29-5-1966, trên đường Trần Bình Trọng-Đà Lạt, Trần Trọng Thức (nhà báo), Nguyễn Ngọc Lan (linh mục, đã chết), Nguyễn Đắc Xuân và Trịnh Công Sơn đã cùng nhau bàn về một giải pháp chính trị cho trí thức yêu nước và người đưa ra sự chọn lựa rất quyết đoán và hợp ý với 3 bạn đồng hành với mình: “Không có con đường nào khác cho anh em mình ngoài Mặt trận Giải Phóng Miền Nam!”.

Vậy là đã quá rõ về khuynh hướng chính trị của Trịnh Công Sơn!

Từ Chính Trị Phong Trào đến Chính Trị Cầm Quyền?

Vỡ mộng chính trị cầm quyền

Những ngày trước 30-4-75, Sài Gòn rơi vào tình trạng hỗn loạn. Người thân cộng thì hí hửng, người quốc gia thì lo âu và tìm đường bỏ nước. Mọi thứ sinh hoạt đều tê liệt, tôi nằm trong số người chịu trận, bế tắc, no way out. Trong thời điểm tinh thần sa sút này, tôi thường ghé qua nhà TCS để tìm một thông tin tốt lành vì anh có nhiều mối quan hệ, nhưng cũng không được gì vì TCS từ chối ra đi và cho biết sắp nhận chức Quốc Vụ Khanh đặc trách văn hoá trong chính phủ Dương Văn Minh lên thay Thiệu-Kỳ, em trai TCS là đại uý Trịnh Quang Hà sẽ được giao làm Cảnh sát Trưởng quận 2 (nay là quận 1). Thế là xong, TCS sẽ tham gia chính quyền được chuyển từ tay Nguyễn Văn Thiệu để thương lượng hoà bình với quân GP đang bao vây Sài Gòn và doạ sẽ tắm máu Sài Gòn nếu VNCH không buông súng.

Thế nhưng, TCS và người em không có tên trong thành phần chính phủ Dương Văn Minh khi các hệ thống thông tin quốc gia công bố ngày 27-4-75 và cũng không có tên kiến trúc sư Nguyễn Hữu Đống trong vai đệ nhất Phó Thủ Tướng - người bạn chính trị không lộ diện của TCS từ trước sự kiện Tết Mậu Thân 1968, một cố vấn chính trị, một công trình sư cho sự nghiệp chính trị của TCS, đã vận động cho TCS vào chính phủ này như là đại diện của phe Phật giáo. Và với kết quả này, nhà hoạt đầu chính trị trẻ tuổi Nguyễn Hữu Đống đã phải rời khỏi nhà TCS ngay sau đó, sau khi đã ăn ở trong nhà TCS nhiều tháng trước như một người em rể.
Sau này, trong thời Lý Quí Chung còn sống, tôi có hỏi về sự việc này. Với tư cách là một Bộ trưởng Thông Tin và người rất thân cận với tướng Dương Văn Minh, Lý Quí Chung đã xác nhận: không hề có một đề cử nào cho TCS và Nguyễn Hữu Đống vào chính phủ Dương Văn Minh cả. TCS và gia đình đã bị Nguyễn Hữu Đống lừa rồi! Và từ đó TCS đã coi Nguyễn Hữu Đống là kẻ ghê tởm.

Một chút về Nguyễn Hữu Đống

Nguyễn Hữu Đống tốt nghiệp thủ khoa Trường Kiến Trúc Sài Gòn khoảng năm 1964 nhưng không hành nghề kiến trúc sư, bắt đầu chơi thân công khai với Trịnh Công Sơn vào khoảng 1970. Tôi không được biết gì nhiều về nhân vật này ngoài việc chứng kiến sự xuất hiện thường xuyên trong nhà TCS những tháng trước 4/1975 với tư cách em rể TCS, giữa lúc Sài Gòn liên tiếp nhận những thông tin về các tỉnh Tây Nguyên thất thủ, và cũng được biết từ TCS vào những ngày cuối của tháng 4/1975 là: chính quyền mới sẽ vẫn giữ nguyên chiếc ghế Đệ nhất Phó Thủ Tướng của chính phủ đầu hàng Dương Văn Minh (tức ghế của Nguyễn Hữu Đống). Sau đó, Nguyễn Hữu Đống đã vượt biên và định cư ở Pháp.

Thế nhưng, vào khoảng năm 1992, Nguyễn Hữu Đống về Sài Gòn và tìm thăm tôi. Tôi tiếp anh tại nhà và cùng ăn trưa. Thật ra, giữa tôi và Nguyễn Hữu Đống không đủ thân để anh tìm thăm, chẳng qua là chỗ để anh trút hết những gì TCS và gia đình không tiếp khi anh tìm đến thăm họ sau hằng chục năm ly gián từ ngày ấy. Trong những thổ lộ của Nguyễn Hữu Đống có 2 chi tiết đáng chú ý: Một là: Ý tưởng và mô hình kiến trúc Ngôi Đền Tình Yêu có hình quả trứng (lấy từ truyền thuyết Âu Cơ đẻ ra 100 trứng) để TCS chủ trì như một giáo đường là của Nguyễn Hữu Đống; Hai là: để Ngôi Đền Tình Yêu này mang đậm sắc thái TCS, Nguyễn Hữu Đống lập ý cho TCS viết Kinh Việt Nam. Dự án này tôi đã được TCS cho biết trước năm 1975 và sẽ xây dựng trên ngọn đồi của Bác sĩ Bùi Kiện Tín ở Thủ Đức, nằm đối diện với nghĩa trang quân đội Sài Gòn cũ. Xét về mặt tài năng kiến trúc và con người đầy tham vọng làm chính trị của Nguyễn Hữu Đống cũng như mối quan hệ mang tính chính trị giữa anh và TCS thì thông tin này đáng tin hơn là gần đây có nghe dư luận từ Phạm Văn Hạng là dự án này của Phạm Văn Hạng và TCS được ông Võ Văn Kiệt ủng hộ?

(Để biết thêm mối quan hệ chặt chẽ giữa TCS và Nguyễn Hữu Đống, xin độc giả đọc thêm đoạn trích dẫn trong phần ghi chú cuối bài viết này, câu Lê Khắc Cầm trả lời phỏng vấn Nguyễn Đắc Xuân về TCS).

Bài Học Lớn Cho Người Làm Chính Trị Tự Phát Trong Xã Hội CSVN

Những Gáo Nước Lạnh Ngày “anh em ta về”

Tuy nhiên, sau sự thất bại ấy, TCS lại đứng lên vui mừng vì Sài Gòn của anh trong ngày 30-4-75 đã xuất hiện: “Cờ bay trăm ngọn cờ bay” và“anh em ta về mừng như bão cát quay cuồng…”. Từ sự kiện tại Đà Lạt mà Nguyễn Đắc Xuân đã nhắc đến ở trên cho đến ngày 30-4-75 không có một chỉ dấu nào cho thấy có mối liên lạc về mặt tổ chức giữa Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam và Trịnh Công Sơn. Thậm chí khi anh được kiến trúc sư Nguyễn Hữu Thái đưa đến Đài Phát Thanh Sài Gòn để hát bài Nối Vòng Tay Lớn mừng chiến thắng lịch sử 30-4-75, TCS, tác giả của ca khúc có tính dự báo cho ngày huy hoàng này của quân Giải phóng và bi thảm cho phía VNCH, cũng bị Tôn Thất Lập, một nhạc sĩ chủ chốt trong phong trào Hát Cho Đồng Bào đã thoát ly đi theo MTGPMN, đuổi ra khỏi phòng thu: ”Mày có tư cách gì mà hát ở đây!”…

Bị bất ngờ với cú ra đòn khá tàn nhẫn này của người “anh em”, TCS thật sự choáng váng và sợ hãi, mọi niềm hân hoan trong anh về giấc mơ hoà bình cho đất nước của mình nay đã thành hiện thực bỗng chốc tan thành mây khói. Niềm vui tưng bừng reo ca “…Mặt đất bao la / anh em ta về / Gặp nhau mừng như bão cát quay cuồng trời rộng/ Bàn tay ta nắm nối tròn một vòng Việt Nam…” (Nối Vòng Tay Lớn) hôm ấy không thuộc về TCS, và thay vào đó là nỗi ám ảnh sắp bị thủ tiêu và phải làm thế nào chạy trốn khỏi “người anh em” càng sớm càng tốt.

Thật ra, tai nạn chính trị này đã có nguồn gốc từ quan điểm chính về tính hai mặt trong âm nhạc và con người TCS của Ban Văn Hoá Tư Tưởng-Trung Ương Cục Miền Nam do Ông Trần Bạch Đằng phụ trách. Chính nhạc sĩ Trần Long Ẩn đã kể lại rằng đã có một cuộc họp kiểm điểm TCS trong Cứ trước 1975 với thành phần tham dự gồm có hầu hết các văn nghệ sĩ thoát ly theo MTGPMN như: Tôn Thất Lập, Trần Long Ẩn,… dưới sự chủ trì của ông Trần Bạch Đằng.

Và Cuộc Chạy Trốn Khỏi Sài Gòn

Sự sợ hãi càng tăng cao khi TCS nhận được tin mình sẽ bị thanh toán. Chỉ vài ngày sau, TCS đã âm thầm cùng mẹ rời khỏi Sài Gòn bằng xe đò, trực chỉ ra Huế, nơi anh cũng đang có những ”người anh em” thân thiết cũ vừa chiến thắng trở về như Hoàng Phủ Ngọc Tường, Nguyễn Đắc Xuân, Thái Ngọc San,… hy vọng chắc được yên thân.

Trở lại sống trong căn hộ cũ 11 Nguyễn Trường Tộ - Huế, TCS quây quần với bạn bè cũ và mới không được bao lâu thì cả thành phố Huế lên cơn sốt đả đảo TCS và Phạm Duy. Các biểu ngữ được giăng ở các trường đại học và TCS phải lên Đài truyền hình Huế đọc bài tự kiểm điểm. Sự cố lần này cũng lại do một nhạc sĩ tổ chức, nhạc sĩ Trần Hoàn, Giám đốc Sở VH&TT tỉnh Bình Trị Thiên. Thế là TCS đã tránh được vỏ dưa SG nay lại găp vỏ dừa Huế! Sự bé cái lầm lần này, có lẽ do TCS đã kỳ vọng ở bạn mình quá nhiều nhưng thực tế vai trò trong lực lượng tiếp quản Huế của Hoàng Phủ Ngọc Tường và Nguyễn Đắc Xuân rất khiêm tốn, chính họ cũng đang phải cố gắng phấn đấu để được kết nạp vào đảng thì làm sao bao che cho tác giả của 2 ca khúc từng bị người CSVN kết án (Ca khúc Gia Tài Của Mẹ với câu: “Hai mươi năm nội chiến từng ngày” đã xúc phạm đến đại cuộc chống Mỹ cứu nước của người CSVN và ca khúc Cho Một Người Nằm Xuống để thương tiếc Lưu Kim Cương - đại tá không lực VNCH chết bởi đạn của quân GPMN - người bạn một thời đã từng dùng máy bay không quân đưa TCS lên Đà Lạt thăm Khánh Ly hoặc ngược lại, đón Khánh Ly về hát với TCS) tại Sài Gòn?

Lần này ở Huế, tính tẩy chay TCS nghiêm trọng và công khai hơn hẳn vụ ở Đài Phát Thanh SG vừa qua. Tình bạn cũ trong trái tim TCS sụp đổ đã đành mà giấc mơ “Khi đất nước tôi thanh bình/Tôi sẽ đi thăm…” tưởng dễ thực hiện của anh cũng bị dập tắt. Những tháng ngày tiếp theo ở Huế, TCS sống như một con tin trong Hội Văn Nghệ Bình Trị Thiên, thường xuyên được tổ chức bố trí đi lao động thực tế trên những cánh đồng vào mùa khô cũng như mùa lụt, không hơn gì một người phải chịu cải tạo.

Cuộc Chạy Trốn Lần Thứ 2

Tuy nhiên, đang kẹt trong cái thế “tiến thoái lưỡng nan” này ở tại chính quê nhà, nơi mình từng tham gia hoạt động đấu tranh chống Diệm rồi chống Mỹ-Thiệu trong Phong Trào Đô Thị Huế với Hoàng Phủ Ngọc Tường, Ng K, Nguyễn Đắc Xuân,… cũng không xong mà về lại Sài Gòn thì càng nguy hiểm thì một vị cứu tinh kịp xuất hiện, ông Võ Văn Kiệt - nhà lãnh đạo công sản cao cấp tiếp quản Sài Gòn lúc bấy giờ. Một cuộc vượt biên nội địa đưa TCS vào lại Sài Gòn sau khoảng 1 năm anh phải “đi thực tế” tại các vùng quê tỉnh Bình Trị Thiên được bí mật tổ chức do ông Kiệt uỷ thác cho nhà văn cộng sản Nguyễn Quang Sáng thực hiện thành công. Từ đây, dưới sự ưu ái của ông Kiệt và nhà văn Nguyễn Quang Sáng được uỷ nhiệm của thượng cấp chăm sóc TCS, cái hạn bị hăm doạ hay trù dập với người nhạc sĩ lãng mạn cách mạng này đã kết thúc.
Qua những “sự cố” như thế, có thể thấy TCS đã mắc những sai lầm với người CS như sau:

- Thiếu minh bạch trong suy nghĩ về chiến tranh VN và tính hai mặt trong quan hệ xã hội.
- Không ở trong một đường dây của tổ chức và chịu sự lãnh đạo của tổ chức đó.
- Không dám thoát ly đi theo MTGPMN.

Và những sai lầm của TCS với phía VNCH:

- Kêu gọi phản chiến nhưng chỉ nhằm vào phía VNCH.
- Thiên về phía người CSVN ngay cả sau khi bị họ giết hụt trong vụ Tết Mậu Thân ở Huế.
- Chống lại phía đã tạo cho mình điều kiện học hành và tự do sáng tác, kể cả tự do tư tưởng dù có bị chế độ SG hạn chế và kiểm duyệt, nhưng không quyết liệt tiêu diệt như đã được thổi phồng (dùng giấy của Hoàng Đức Nhã cấp để đi đường do Phùng Thị Hạnh trung gian, nhiều sĩ quan VNCH che dấu,…) để có một nhạc sĩ Trịnh Công Sơn tồn tại lừng lẫy như thế cho đến ngày 30-4-75. Dù ý thức chính trị ra sao, Trịnh Công Sơn vẫn là sản phẩm của chế độ VNCH đúng như Đặng Tiến đã nhận định trong một bài viết ở đâu đó mà tôi không còn nhớ tên.

Bước Ngoặt “Mỗi Ngày Tôi Chọn Một Niềm Vui”

Sa Lầy vào Rượu và Xu Nịnh

Cuối tháng 5-1978, tôi ra khỏi trại cải tạo, gặp lại TCS. Lần nào đến nhà anh ở 47c Phạm Ngọc Thạch-Sài Gòn, sáng hay chiều, cũng thấy TCS ngồi nhậu rượu Ararat, một loại cô-nhắc Nga (sau “đổi mới” chuyển qua rượu chát đỏ của Pháp, và sau cùng là Whisky Chivas) với Nguyễn Quang Sáng và một số bạn “mới”. Tôi cảm thấy có một điều gì đó không ổn, hình như tôi, một thằng sĩ quan Nguỵ đi tù về, không còn được TCS và gia đình coi là người thân như ngày xưa. Thái độ khó chịu của tôi mỗi lần ngồi trước mặt những người bạn “mới” này của Sơn đã khiến tôi bị TCS và gia đình tẩy chay ngầm.

Thực ra, tôi đã bị TCS và nhóm bạn Huế cũ loại ra từ những năm tháng tôi đi lính VNCH mà tôi không hề biết. Sau này, hoạ sĩ Tôn Thất Văn (đã chết) đã kể lại cho tôi rằng có những cuộc họp ở Huế vào những năm 60-70, TCS và những người mà tôi đã coi là bạn thân tình đã đem tôi ra để phê phán, tẩy chay vì tôi đã không trốn lính và đứng về phía Quốc Gia. Rất tiếc, trong số này lại có cả Đinh Cường, người đã từng học cùng trường mỹ thuật, ở cùng nhà, và do tôi giới thiệu làm quen với TCS, do tôi kết nối với anh bạn Thọ giàu có ở Đà Lạt để có những tháng ngày cùng TCS rong chơi thơ mộng khi lưu lại căn phòng anh Thọ đã thuê cho tôi tại biệt thự số 9 đường Hoa Hồng hay ở trong căn nhà sàn gỗ thơ mộng bên một dòng suối róc rách trong một hóc núi của thị trấn Đơn Dương từ trước khi tôi rời Đà Lạt về Sài Gòn năm 1964 theo giấy gọi vào quân trường sĩ quan trừ bị Thủ Đức khoá 19. Và cả những tháng ngày nhàn nhã làm sinh viên sĩ quan tại đây vào năm 66 hay 67, lúc này tôi là sĩ quan huấn luyện CTCT và phụ trách một phần nguyệt san “Bộ Binh”. Sau ngày 30-4-75, với cấp bậc Trung uý ngành Công binh VNCH, Đinh Cường trở lại Trường Mỹ Thuật Huế và được miễn đi học tập cải tạo nhờ vào việc đã tham gia các hoạt động đấu tranh chống VNCH của nhóm Hoàng Phủ Ngọc Tường, Ngô Kha, Nguyễn Đắc Xuân, TCS,.., nhiều năm trước.

Có một kỷ niệm đặc biệt với Đinh Cường mà tôi cũng muốn nói ra luôn sau bao nhiêu năm cố giữ chặt trong lòng, để lòng mình thôi nặng trĩu và cũng minh chứng cho một tình bạn không hề có thật mà anh ấy đã dành cho tôi, mà tôi đã hằng chục năm cố nghĩ khác đi, cố không tin. Sự việc xảy ra như thế này: Ngày 1-5-75, 8g sáng tôi đến nhà Đinh Cường ở đường Nguyễn Đình Chiểu cũ, gần chợ Tân Định để xem tình hình như thế nào. Như thường lệ tôi vẫn đến đây dễ dàng như người trong nhà nên rất tự nhiên bước lên cầu thang dẫn lên căn gác của bạn mình. Thế nhưng chị TN, vợ Đinh Cường đã chặn tôi lại ở giữa cầu thang và nói Đinh Cường đi khỏi rồi. Tôi không tin và nói lớn là có hẹn trước, lúc đó Đinh Cường mới nói vọng xuống để tôi lên. Khi lên tới nơi thì đã có mặt của Bác sĩ Trương Thìn, Nhạc sĩ Miên Đức Thắng cùng ngồi đó. Tôi gượng gạo ngồi xuống và Đinh Cường nói với 2 vị khách kia như hỏi ý: “Mình cấp cho TC cái giấy chứng nhận thuộc Thành Phần Thứ 3 nhé!”. Lập tức tôi đứng lên và từ chối: “Không, hãy để tôi chịu trách nhiệm với họ, và Thành Phần Thứ 3, Thứ 4 gì họ cũng dẹp sạch thôi!”…

Với TCS, gia đình cùng các “đồng chí” rượu của anh, tôi lúc này là một kẻ xa lạ, một người lạc hướng, môt cái gai khó chịu, một con kỳ đà làm cho cuộc vui hoan lạc của họ không được hoàn hảo, tôi nên biến đi. Nhưng tôi lại là một gã ngoan cố, tự cho mình nhiệm vụ phải ngồi lại để làm Sơn tỉnh táo hơn, để những tiếng nói bớt đi những lời xu nịnh. Ý thức được rượu, phụ nữ và xu nịnh là một loại ma tuý tổng hợp đang nhấn chìm TCS được nguỵ danh dưới khẩu hiệu “Mỗi ngày tôi chọn một niềm vui” nên tôi cố chiụ đựng sự khó chịu của họ và vẫn không tìm cách lấy lại chỗ đứng thân thiết vốn có với TCS thủa còn trai trẻ ở Huế bằng rượu chè, quà cáp đắt tiền và những tán tụng nuông chìu. Tôi vẫn đứng trên đôi chân liêm sỉ và theo đuổi một thứ nghệ thuật tri thức, đó là chỗ mà TCS, trong thâm sâu của tâm hồn anh, không thể loại bỏ tôi cho dù có khác nhau về quan điểm chính trị và cách sống. Đó cũng là điều mà TCS trong những lúc cô đơn nhất đã đến gõ cửa nhà tôi bất kể đêm khuya hay khi bình minh vừa ló dạng để hàn huyên hoặc khoe và hỏi ý kiến tôi về bức tranh mà anh vừa vẽ.

Điều Đáng Tiếc

Trong thời buổi sống như một kẻ bên lề của một Sài Gòn đã bị đổi tên và những người bạn thân một thời hồn nhiên như thế nay cũng đã cúi mình, ngoan ngoãn làm những con rối của chế độ mới, quay lưng lại với thân phận khốn đốn của đồng loại, tự huỷ tri thức, lương tâm, thứ một thời nhờ nó đã làm nên những ca khúc tranh đấu cho thân phận và tự do con người, nay chọn cho mình con đường sa lầy vào rượu, thuốc và phụ nữ, tôi thấy mình thật sự cô độc và bất lực trước sự sụp đổ từng ngày của một người bạn tài hoa nhất mà tôi từng yêu quí. Nhiều khi tôi muốn nói với bạn mình: “Tại sao cậu lại sa đà vào những cuộc chơi phù phiếm? Tại sao cậu không viết những ca khúc cho thân phận VN 2 đang bị một thứ xiềng xích vô hình nhưng vĩnh cửu, vì nó được khoá bởi chính người VN chứ không phải ngoại bang? Hay ít ra thì cậu nên sống yên lặng như một cái bóng, một hòn đá tảng vì cái giấc mơ hoà bình, thống nhất quê hương của cậu dù không phải nguyên nhân chính gây ra sự sụp đổ hoàn toàn nền Cộng Hoà trẻ tuổi MNVN, nhưng về mặt tâm lý cũng đã ít nhiều làm lợi cho phía bên kia, vô tình đồng loã với kẻ đã gây ra cái bi kịch thảm khốc cho hằng triệu người Việt từng ái mộ, tôn thờ cậu nay phải bỏ nước ra đi bằng giá của cái chết không được chôn cất, bằng sự tật nguyền tinh thần, nếu may mắn đến được bờ tự do thì bạn cũng đáng được cảm thông… Vì tôi biết chắc chắn một điều là tất cả những trí thức thiên tả VN như cậu cũng đều không chờ đợi một kết cuộc cho đất nước theo cách như đang diễn ra…”. Nhưng có lẽ trực giác của tôi đã mách bảo rằng điều ấy nằm ngoài khả năng của TCS, cứ để cuộc sống của anh phụ thuộc vào bản năng, đã tiêu vong rồi một TCS mạnh mẽ dấn thân, mạnh mẽ ca hát cho hoà bình đất nước, cho dân tộc ấm no, bình đẳng, tự do và hạnh phúc như ngày nào. Thời cuộc làm ra TCS đấy thôi, anh không phải là người làm ra thời cuộc, nên tôi đã nghẹn họng.

Ảo Tưởng Cuối Cùng

Dần dà rồi TCS cũng tìm lại cho mình một phần phong độ sáng tác nhờ hấp thụ những ngọn lửa nhỏ từ những nhan sắc phụ nữ và sự trân trọng (theo chủ trương) của những nhạc sĩ thuộc Hội Âm Nhạc TP HCM như Xuân Hồng, Hoàng Hiệp, Thanh Tùng, Tôn Thất Lập, Trần Long Ẩn,… và một nhóm nhạc do họ tổ chức có tên “Những Người Bạn” ra đời khoảng thập niên 90, và TCS được coi là đầu đàn. Anh trở thành nhân tố quan trọng nhất trong việc thu hút sự chú ý của công chúng mỗi khi anh có mặt trong các show diễn của nhóm. TCS cũng là một tiếng nói có trọng lượng nhất đối với nhiều tên tuổi hàng đầu của nhạc cách mạng VN như Văn Cao, Trọng Bằng, Hồng Đăng,… trừ ông nhạc sĩ Bộ Trưởng Bộ VH&TT Trần Hoàn (đã nghĩ hưu), người từng mở chiến dịch đả đảo anh một thời ở Huế, là vẫn tiếp tục nhìn TCS như một kẻ xấu.

Dù gì thì thế đứng chính trị của TCS cũng đã được tốt hơn trước rất nhiều, có phải vì thế mà anh đã chủ quan nghĩ mình là người đến lúc nên đứng vào hàng ngũ của đảng?

Sơn đem ý định này nói với tôi, tôi liền can:“Không nên Sơn ơi, cậu đang là một nhân vật âm nhạc lớn, người ta nể trọng vì ảnh hưởng của cậu đối với công chúng rất lớn cũng như quốc tế. Nay cậu trở thành đảng viên mới tò te còn ai coi trọng nữa. Nếu ông Hoàng Hiệp chống lai là may cho cậu lắm đó!”. Tôi đã nói với TCS như thế và TCS im lặng. Tuy nhiên không phải nhờ sự phân tích ấy mà TCS không trở thành đảng viên Đảng CSVN, mà bởi sự ngăn cản của nhạc sĩ Hoàng Hiệp, người giữ vai trò chính trị của Hội Âm Nhạc TP HCM và cũng là cán bộ có trách nhiệm quản lý TCS. Trong một lần bất bình vời Hoàng Hiệp về việc bị kiểm điểm, TCS đã chửi thẳng vào mặt Hoàng Hiệp ngay tại trụ sở Hội Âm Nhạc TP HCM:”Mày là thằng mặt lồn!”.

Đã không những không được vào đảng, TCS còn được cho về hưu để vĩnh viễn kết thúc giấc mơ - ảo tưởng cuối cùng của anh.

Cái Chết - Vinh Quang Đích Thực

Nếu con đường chính trị đối với TCS là một con đường dẫn anh xuống vực thẳm thì cái chết là một kết thúc hoàn hảo. Hay nói một cách khác, nó đã giải cứu và trả lại vinh quang đích thực cho anh - vinh quang dành cho di sản ca khúc TCS.

Không chỉ niềm vinh quang này bừng sáng huy hoàng bởi hàng chục ngàn người yêu âm nhạc của anh ở trong nước tiễn đưa anh đến nơi an nghỉ cuối cùng, mà người Việt trên khắp thế giới cũng nhỏ lệ tiếc thương, nhất là người Việt ở Mỹ, nơi mà Trịnh Công Sơn lúc sinh tiền không dám đặt chân đến dù không ít lời mời. Một lễ tưởng niệm long trọng được tổ chức tại Hội trường báo Người Việt với sự tham dự đông đảo của nhiều giới khác nhau trong cộng đồng ở cả Nam và Bắc California ngay trong đêm 1-4-2001, điều mà trước đó không ai dám nói công khai về tình cảm của mình với TCS ở chỗ đông người tại Mỹ.

Lời Kết

Sau 8 năm Trịnh Công Sơn ra đi, mọi cảm xúc thương tiếc sau cái chết của anh trong mỗi chúng ta cũng đã phần nào chìm lắng, hôm nay, tôi quyết định và chọn lựa thời điểm này để viết về một góc khác, một phương diện khác của Trịnh Công Sơn mà chưa ai viết hoặc viết một cách có hệ thống.

Bài viết này chắc chắn sẽ gây ra sự mất mát tình cảm, sự đổ vỡ các mối quan hệ vốn có của tôi, vì một số những nhân vật được đề cập nay đang còn hiện diện trong cuộc đời. Sự thật bao giờ cũng gây mất lòng, tôi đã tự hỏi mình nhiều lần trong nhiều năm qua: có nên viết nó ra, giải thoát cho nó khỏi ngục tù trong tôi suốt hơn 30 năm qua? Sự quằn quại của nó trong cái nhà tù ký ức cũng làm tôi đau buồn đến không chịu nổi. Giải phóng cho nó là giải phóng cho chính tôi, dù có phải bị trả giá.

Đó là về phần cá nhân tôi, còn đối với TCS, bài viết này tôi muốn bổ sung thêm những điều mà trong các cuộc nói chuyện về TCS ở Mỹ tôi đã không thể nói hết được. Một nửa sự thật cũng chưa phải là sự thật. Tôi tin vào điều tốt đẹp của sự thật. Nó có thể sẽ làm tan đi hình ảnh một TCS được tô vẽ bởi những huyền thoại và ảo ảnh lấp lánh trong lòng ai đó, nhưng sẽ trả lại một TCS thiên tài đích thực của âm nhạc như nó vốn có, để mọi người nếu đến với nhạc Sơn thì sẽ có được cơ may yêu mến trọn vẹn một con người có thực, chứ không phải một thứ tượng đài được nhào nặn, tô vẽ và dựng lên vì một mục đích riêng. Đã đến lúc sự thật đó cần được trả lại cho những người Việt đã, đang và sẽ mãi còn coi nhạc Trịnh là lẽ sống của mình, mang nó theo mình như một thứ tài sản vô giá dù đi đến bất kỳ đâu, dù ở chiến tuyến nào.

Tất nhiên, những lập luận và lời kể trong bài viết này dựa vào những gì tôi đã trải qua, những tư liệu riêng và những tư liệu của những người bạn cũ của TCS mà họ đã công khai phổ biến trên các phương tiện truyền thông, và vì thế chắc chắn còn thiếu sót tất yếu, vì tôi biết còn nhiều sự thật đang được cất dấu bởi những người có quan hệ cận kề với TCS trong từng giai đoạn của lịch sử VN từ 1954 đến hôm trước khi TCS qua đời mà họ vì những lý do nào đó chưa tiện nói ra. Tôi xin cám ơn những ai sẽ đóng góp thêm những gì giúp cho bài viết này được hoàn hảo hơn, kể cả những phản biện.

Sau cùng, mỗi con người Việt Nam đã trải qua và sống sót sau cuộc chiến tranh khốc liệt vừa qua đều giữ trong mình những sự thật riêng, một gốc nhân chứng riêng, xin quí vị hãy trả lại nó cho lịch sử, nếu được như thế thì tấm gương lịch sử VN mới trong sáng được. Cũng vì điều này, cho tôi xin lỗi những gì mà bài viết có làm tổn thương đến một ai đó cũng là vì không còn sự lựa chọn nào khác.

Sài Gòn 29/3/2009
TRỊNH CUNG
———————————————————————————–
Tư liệu tham khảo:
1. Như Những Dòng Sông, Hoàng Tá Thích, Nhà Xuất Bản Văn Nghệ 2007.
2. Trịnh Công Sơn, Cuộc đời, Âm nhạc, Thơ , Hội hoạ & Suy tưởng, Nhà Xuất Bản Văn Hoá Sài Gòn, 2005.
3. Thư TCS gửi Ngô Kha, nguồn: http://www.gio-o.com
4. Sự thực Thư Gửi Ngô Kha, Nguyễn Đắc Xuân, phần phỏng vấn Lê Khắc Cầm, nguồn: http://www.gio-o.com
5. Có nghe ra điều gì, Thủ bút của TCS nói về trách nhiệm của mình với đám đông (Tư liệu của Bác sĩ, nhà văn Thân Trọng Minh - Lữ Kiều).

Saturday, 28 March 2009

Về những giọng ca nam của Việt Nam( March 29, 2009)

Clip minh họa: AC&M hát Anh vẫn hành quân của Huy Du. Băng tư liệu Con đường Âm nhạc số 18- Chân dung nhạc sỹ Huy Du.

Trao đổi với anh Trần Thanh Tú* về giọng hát của các nam ca sỹ Việt Nam:

1. Thôi thì mấy ông Trần Thụ, Mai Khanh, Quốc Hương, Trần Khánh,Trung Kiên, Quý Dương, Kiều Hưng, Trần Hiếu thì anh em mình sẽ chuyển sang bình luận về cảm thụ sau vì mức độ phổ cập trong danh tiếng của họ cũng khá cao... Nhưng chưa thấy anh nói về Tiến Thành, một người cùng thời với anh. Em gọi Tiến Thành là “Nghệ sỹ đặc biệt” trong phân loại tư liệu của các ca sỹ trong bộ sưu tập của em. Em có một bài khá dài trên blog về Tiến Thành, nhưng chủ yếu là dựa vào trí nhớ chắp ghép của em… Nhóm Tiến Thành, Huy Hùng, Đăng Khoa, Hữu Nội rất hay hát cùng nhau. Dù cho phần lớn các bài đồng ca của Đài không có giới thiệu từng ca sỹ, nhưng em có thể tách giọng từng người ra một. Giọng ông Đăng Khoa hơi xù xì, thô ráp nhưng có sức hút kỳ lạ. Huy Hùng có lúc hơi nhạt, nhưng em thấy giọng hát rất trẻ và tình tứ. Cũng là người Hải Phòng anh nhỉ. Ông Hữu Nội thì nhìn hình thức đúng là một ông nghiện, nhưng giọng nam cao của ông ý ở Việt Nam hiếm thật. Trong dàn hợp xướng giọng ông ý át tất cả các giọng khác ... Đặc trưng vibrato của Hữu Nội theo em là “phép rung” chứ không phải “tật rung” như Lê Dung đời đầu anh nhỉ J. Doãn Tần thì anh có nói qua và nhiều người biết. Nhưng cùng kiểu giọng như Doãn Tần em nhớ còn có Hoàng Chè. Lần làm chương trình 50 Điện Biên Phủ em có gặp chú ấy, nhưng chả có dịp nói chuyện. Hoàng Chè có bài "... hỡi đồi cao A1 ... đến Điện Biên hôm nay lòng như say điệu hát. Có mùa hoa ban ở trên nẻo đường quê xa. Có tình yêu muôn thuở là Điện Biên quê ta" hay ghê. Mà em nhớ đọc ở đâu đó có nói Hoàng Chè là thanh niên Hà Nội thứ thiệt.

2. Có những giọng nam hiền lành như anh đã nói là Ngọc Tú. Ngoài bài Mời anh đến thăm quê tôi được dàn dựng, hòa âm rất hay em còn rất thích bài Cánh chim tuổi trẻ (Tạm biệt phố phường Hà Nội, tạm biệt những mái trường … ta đi tới những miền đất mới, ta mang sức trẻ của mùa xuân …). Ngày nay có Phạm Văn Giáp có giọng gần giống Ngọc Tú. Bên cạnh Ngọc Tú em thấy có Trung Bộ của Văn công QK2 cũng có giọng nam trung hiền lành như trong "Lim dim câu hát sông cầu". Ông Trung Bộ còn hát rất hay trong tốp ca của bài Tiếng đàn bên bờ sông biên giới của Phạm Tuyên (mà những năm 80 VTV sử dụng làm nhạc hiệu chương trình ca nhạc). Có giọng nam cũng hiền lành và hơi "mềm" là Minh Quang của TCCT. Minh Quang này em rất thích khi ông ấy hát Lá đỏ, Ta ra trận hôm nay. Minh Quang song ca với Lê Dung bài Củ Chi yêu thương rất hay và nhiều bài khác nữa. Sau này có Minh Quang trẻ trẻ nữa. Nhưng Minh Quang này giọng "mô phạm" giống kiểu Trần Tựa, Trọng Thủy là những chất giọng mà em không được thích cho lắm :) Hiền lành và hơi cứng nữa thì phải kể đến chú Mạnh Hưng nổi tiếng đẹp trai của TCCT. Trong các bài hát của chú này em chỉ lưu có 2 bài là Cửa biển chiều hôm của Huy Du và Thành phố tôi yêu của Phạm Đình Sáu viết về TPHCM (Đẹp mãi mùa xuân thành phố của tôi, rộn vang tiếng ca ngợi tên Bác Hồ, sức sống sinh sôi nhịp vui hối hả ...) Nhưng em thấy Ái Vân hát bài Thành phố tôi yêu tình tứ và thiết tha hơn nhiều. Ái Vân thu bài này cùng thời với 2 bài của Hoàng Dương là Matxcova một tình yêu và Mai em đi rồi.

3. Rồi còn Phan Huấn nữa. Phan Huấn cũng hiền hiền. Ông ấy có lẽ là người đầu tiên hát Hành khúc ngày và đêm của Phan Huỳnh Điểu. Trong bản nhạc mà Phan Huấn hát không có đoạn “Rất dài và rất xa …” mà thay vào đó là đoạn vocal “hò ơ ơ…”. Phan Huấn cũng là người đầu tiên hát Đàn Tơ-rưng (Nguyễn Viêm & Huy Cận: Anh bắc qua con suối, chiếc cầu phao âm thanh …) với đoạn giả thanh ở câu cuối rất điệu nghệ và đặc sắc. Một trong những tư liệu quý của em lại chính là bài Tình ta biển bạc đồng xanh của Hoàng Sông Hương (tư liệu viết là Rừng xanh) mà ông Phan Huấn song ca cùng Tuyết Thanh. Bài hát này vốn dĩ rất hay, nhưng không hiểu sao VOV không cho lưu hành, tới mức gần đây khi Việt Hoàn, Anh Thơ và một số cặp song ca trẻ khác cover lại thì nhiều người mới biết là có bài hát này. Có người nói, bài này cũng giống như bài Tâm tình người thủy thủ của Đức Minh có hơi hướng nhạc vàng, tiểu tư sản thế nào đó nên ngày xưa bị cấm (!)

4. Bên cạnh mấy giọng nam hiền lành đó thì em còn rất thích những giọng nam khỏe khoắn, rắn chắc kiểu cổ điển, như là Quang Phác trong Hò biển mà anh đã kể sơ qua. Từa tựa như Quang Phác em thấy có Huy Giảng trong Bài ca bên cánh võng, Chiếc ba lô và bài ca tình nguyện, Hãy cho tôi lên đường … Bật hẳn lên trong nhóm này em nghĩ là Quang Hưng. Từ “hào sảng” và “lạc quan” có lẽ là hai từ rất trúng để nói về giọng hát Quang Hưng. Nó khác với “hào sảng” nhưng lại “bi tráng”, “kịch tính” và có khi “u uất” trong giọng hát của Trần Khánh.

5. Tổng hòa các vẻ đẹp của nhiều giọng nam phải kể đến Dương Minh Đức. Theo em đây là một trường hợp đặc biệt. Giọng Dương Minh Đức vừa kinh viện lại vừa trẻ trung. Rất nam tính và lại rất mềm mai, uyển chuyển. Về quãng giọng chắc sánh ngang với Trung Kiên nhưng Dương Minh Đức lại không hát gắt như Trung Kiên. Giọng Dương Minh Đức rất bay nhưng lại không bị mảnh và mái như Doãn Tần, Hoàng Chè, không chói như Hữu Nội. Dương Minh Đức hoàn hảo trong Như sóng về trùng dương của Hoàng Dương hay Nhựa bạch dương (nhạc Liên Xô). Những bài hát gắn chặt với tên tuổi Dương Minh Đức còn phải kể đến Rừng chiều của Vũ Thanh, Tôi là người thợ của Phan Thanh Nam, Hát về Tổ quốc tôi của Hữu Xuân. Bài Sa Pa thành phố trong sương hay nhất thì phải kể đến bản thu giọng hát của Ngọc Khuê (tác giả của Mùa xuân làng lúa làng hoa) với dàn nhạc dây của Đài VOV. Tuy nhiên, nhiều người vẫn thích bản của Dương Minh Đức hơn với lập luận rằng Dương Minh Đức làm toát lên được cái huyền ảo, cái mênh mang của một thành phố trong sương. Bài hát này nằm trong số các ca khúc thời chiến tranh biên giới với Trung Quốc, nhưng không hề có không khí chiến tranh. Có những bài hát gắn liền với tên tuổi của một ca sỹ. Và do đó bất kỳ ca sỹ nào hát sau đó đều được coi là liều lĩnh và khó thành công. Chẳng hạn như Quỳnh Liên và Ngọc Minh không thể cạnh tranh với Thanh Hoa trong Mùa xuân làng lúa làng hoa; Trung Anh lại càng không bao giờ làm được việc đó. Thế nhưng điều này không xảy ra với Dương Minh Đức. Bác Hồ một tình yêu bao la do Dương Minh Đức tồn tại rất chững chạc bên cạnh phiên bản đỉnh cao của Thanh Hoa. Chiều trên bến cảng của Dương Minh Đức cũng không hề bị lu mờ trước tên tuổi của Ngọc Tân… Tuy nhiên, giống như đồng nghiệp nữ của mình là Kim Phúc, giọng Dương Minh Đức ngày nay không còn được như xưa. Thậm chí nhiều người không nhận ra được Dương Minh Đức ngày xưa nếu chỉ quen với giọng hát hiện nay của ông phó hiệu trưởng nhạc viện Quân đội này.

6. Giọng nam trầm của Việt Nam hiếm anh nhỉ? Nếu liệt kê ra thì em chỉ biết có Trần Hiếu và Quang Huy. Trần Hiếu thu ở Đài VOV không nhiều đâu. Em chỉ sưu tập được chưa đến 10 bài, trong đó em thích nhất là “Những viên đạn trao từ đôi mắt” (hay Những đôi mắt mang hình viên đạn). Trần Hiếu hát Hồ Chí Minh đẹp nhất tên Người với dàn nhạc dân tộc pha với dàn nhạc dây rất hay. Đúng là em có nhiều bản, trong đó có 5 bản đỉnh, một của Kiều Hưng, một của Trung Kiên, một của Bích Liên, một của Tuyết Thanh và một của Trần Hiếu thì mỗi bản đều có một cái hay riêng. Ông Trần Hiếu còn thu Hành khúc ngày và đêm, trong đó có một đoạn hát nói rất hay. Còn Quang Huy thì em cực thích bài Đường Trường Sơn xe anh qua. Phải nói bài này hay vì một lý do rất quan trọng là phần phối khí quá hay, tiếng contrebasse sử dụng rất hiệu quả. Quý Dương thu bài này trước Quang Huy, phần phối khí bằng dàn nhạc dây cũng rất hay nhưng có vẻ bản của Quý Dương ít người biết đến hơn. Quang Huy còn hát nhiều bài nổi tiếng khác như Bên lăng Bác Hồ, Lướt sóng ra khơi. Nhưng quả thật em thấy giọng bass của Quang Huy già quá. Nhiều lúc em thấy nó hơi tối. Mà đồng chí Quang Huy này có vẻ cũng là một trong những nam nhân của làng ca nhạc thời đó. Em thấy rất hay song ca cùng Ái Vân.

7. Công nhận mấy ông “Quang” của mảng ca khúc đều “sáng” thật. Ở trên em nói đến Quang Phác, Quang Hưng, rồi Quang Huy. Còn phải kể đến Quang Mạo nữa chứ. Hồi Đoàn Ca nhạc nhẹ Trung ương của Trần Bình làm các Gala và Nhạc hội những năm đầu 90, em nhớ có bài báo giật tít là trong đêm Nhạc hội vừa qua “cả 3 Quang đều tỏa sáng”. Một Quang trong đó là Quang Mạo. Hình như Quang Mạo là người nhà của Ngọc Lan nhạc viện thì phải. Ngày xưa em đọc báo Hà Nội mới thấy nói thế. Quang Mạo dẫn dẵt cho Ngọc Lan vào Nhà hát nhạc vũ kịch hay sao đó. Về Ngọc Lan chắc em sẽ nói tới trong một dịp khác vì hôm nay chúng ta nói về các nam ca sỹ. Nhưng dù sao em cũng nói luôn là mấy cô giáo thanh nhạc “nổi tiếng” hiện nay như Ngọc Lan, Hà Thủy… đều không có tác phẩm để đời trong VOV. Họ hát mấy bài trong VOV đuối lắm…

8. Quang thứ 2 mà bài báo nói đến là Quang Huy thì em đã nói rồi. Còn Quang thứ 3 chính là Quang Thọ. Nói đến Quang Thọ thì em lại phải trở lại với đặc điểm giống Trần Hiếu là Quang Thọ cũng rất có ít bài thu âm tại VOV. Hình như những năm 70, 80, Quang Thọ chả có tên tuổi gì cả, hoặc là ông ấy còn ở văn nghệ quần chúng, còn ở địa phương. Em tuyệt nhiên không tìm được bản thu âm nào của Quang Thọ lúc trẻ. Đến Đức Long, cũng là người Quảng Ninh, mà em còn tìm được bản thu năm 1979, khi đó tên là Đỗ Đắc Long (không biết các kỹ thuật viên có ghi nhầm tên không, nhưng giọng thì đúng là của Đức Long). Nhưng với Quang Thọ em chỉ tìm được các bản thu sau này. Và em cũng chỉ lưu hai bản là Vang mãi bản tình ca của Trọng Bằng và Ta tự hào đi lên ôi Việt Nam là hai bản mà em rất “chịu” Quang Thọ. Còn thực ra em không khoái giọng Quang Thọ lắm đâu vì em thấy chú ấy cứ ngậm miệng lại, tiếng hát nó trở nên không khoáng đạt.

9. Cũng là nghệ sỹ nhân dân nhưng rất ít bản thu trong hai thập kỷ 70 và 80 tại Đài là đồng hương của em, và cũng là đồng hương của bà Thương Huyền, đó là Trung Đức. Trong “thời xa vắng” của nhạc VOV, em tìm được mỗi một bản của Trung Đức là Hò biển. Giọng vang, sâu và bay lắm, chứ không bị gân guốc như gần đây. Nhưng bù lại sự thiếu hụt thuở xưa, Trung Đức thu âm khá nhiều trong những năm cuối 80 và đầu 90. Nhưng em lại xếp những bản thu đó vào nhóm “Nhạc trẻ thập niên 80-90” chứ không phải nhóm “Kinh điển Việt Nam” trong tổ chức bộ sưu tập của em. Phải công nhận loạt bài thời đó của Trung Đức thực sự khiến chú ấy là sao của bầu trời ca nhạc Việt Nam khi đó, nhất là trên truyền hình, cùng với Thanh Hoa, Thu Hiền là những người có tần số xuất hiện trên truyền hình vào hàng số một. Những tác phẩm để đời của Trung Đức phải là Thì thầm với dòng sông, Đi tìm câu hát lý thương nhau, Hoa bằng lăng, Biển hát chiều nay… Nhưng em nghe nói, cũng như Mạnh Hà, thậm chí cả Lê Dung, Trung Đức rất khổ sở về nhịp. Như thế là sao nhỉ? Như thế thì có lẽ họ nên hát với piano anh nhỉ?

10. Thời kỳ Trung Đức oanh tạc ở miền Bắc và trên truyền hình thì em nhớ là ở miền Nam có Quang Lý, Thế Hiển, Lê Hành rất sáng. Lê Hành tất nhiên có Con kênh ta đào được em xếp vào nhạc kinh điển. Nhưng chủ yếu, cũng như Trung Đức, em xếp các bài hát của mấy vị này vào phần nhạc trẻ. Sau này thì thấy rằng, nói một cách thật chính xác thì họ là thế hệ chuyển tiếp, là cái gạch nối giữa kinh điển và nhạc trẻ. Thời kỳ của họ đánh dấu giai đoạn cuối cùng trong tính “nhất nguyên” trong đời sống âm nhạc Việt Nam trước khi chúng ta chuyển sang thời kỳ “tam giáo đồng nguyên” trong đó nhạc đỏ, vàng, xanh cùng tồn tại, cùng phát triển mà em sẽ bàn với anh trong dịp khác… Quang Lý sau này em không thích lắm, giọng giống Ngọc Tân lúc về già, tức là mũi bị sao đó, nhưng không sáng bằng Ngọc Tân. Tuy nhiên Quang Lý hát Thuyền và Biển và đoạt giải 3 trong cuộc thi đơn ca chuyên nghiệp toàn quốc năm 88 thì thật là không ai bằng. Thế Hiển năm đó hát Đất nước, Chuyện ngày xưa chuyện ngày nay, Cây đàn ghita của Lorica cũng trở thành những bài đóng đinh trên sóng VOV cho tới nay. Vì Lê Hành hát một bài hit thời kỳ đó là Một rừng cây một đời người mà em xếp chú ấy vào nhóm nhạc trẻ 80-90!

11. Thật lạ là sau lớp Trung Đức, Quang Lý thì chúng ta bị gián đoạn một thời gian, không có gương mặt nào sáng bật lên. Nói đúng ra thì lớp sau phải kém lớp Trung Đức, Quang Lý 10, 15 tuổi. Hồi đó thì nhạc trẻ miền Nam và Hải Đăng nổi quá rồi với Ngọc Sơn (Chiếc vòng cầu hôn), Thanh Nam (Câu chuyện nhỏ của tôi), Anh Duy (Thuyền và biển), Đỗ Hữu Xuân (Trở về dòng sông tuổi thơ)... Hay dòng nhạc Phú Quang, Dương Thụ, Trần Tiến nổi lên làm nổi danh Thanh Long bass, hay Nguyễn Hoàng với Tùy hứng lý qua cầu. Nhưng đó là nhạc trẻ và toàn là ở phương Nam. Còn nhạc đỏ thì cũng chính các nam ca sỹ ở miền Nam mới chiếm lĩnh thị trường. Đó chính là phong trào các ca sỹ miền Nam hát nhạc đỏ với đầy đủ những Lệ Thu (Trường Sơn Đông, Trường Sơn Tây), còn nam ca sỹ thì có Thế Sơn (cover lại Lá đỏ, Ngọn đèn đứng gác) hay Quang Bình (Trang Thanh Lan), thậm chí cả Nguyễn Hưng … Nhưng đó cũng là kiểu hát nhạc đỏ mà em mãi không làm quen và chấp nhận được. Điều em muốn nói ở đây là lúc này ở miền bắc các nam ca sỹ trẻ thật sự là thiếu. Minh Thắng có thấp thoáng xuất hiện ở Đoàn ca nhạc nhẹ trung ương với mấy bài, như Thuyền và biển (Hữu Xuân) hay Điều giản dị, Mùa xuân tương lai nhưng sau đó biến mất hoàn toàn. Quang Vinh thì không hẳn là ca sỹ. Bên Nhà hát Tuổi trẻ thì Hồng Kỳ, Thanh Tùng bắt đầu lo chạy theo nhạc trẻ của thị trường. Phải đến 93, 94 Tấn Minh mới xuất hiện nhưng chủ yếu là kiểu ca sỹ học trò và không xác định được rõ thế mạnh. Cũng trong thời kỳ xuất hiện Tấn Minh thì khán thính giả rất có cảm tình với các sinh viên của Trường Văn hóa nghệ thuật quân đội với các gương mặt như Ngọc Lê, Hồng Hải, Minh Hoa, Hương Mơ. Nam thì có Thế Vũ, Hồ Tùng. Hồ Tùng sau này vì mắc bạo bệnh nên sức khỏe suy sụp, có thời em thấy chuyển sang dạy hát trên VOV. Thế Vũ khá sáng sủa, có lúc được liệt vào cùng thứ hạng với Thanh Lam, Mỹ Linh … nhưng lúc về Nhà hát Ca múa nhạc Việt Nam của Tiến Định lại không phát huy mấy. Anh này giờ đã chuyển sang kinh doan … Rõ ràng đây là thời kỳ tranh tối tranh sáng trong mảng ca khúc ở Việt Nam mà trong đó phần nhạc kinh điển bị lép vế, các nam ca sỹ bị xuống hạng.

12. Chắc sẽ có một dịp anh sẽ kể cho em nghe về các ca sỹ của phong trào “Khắp nơi ca hát”. Qua nói chuyện với anh thì em biết rằng Tuyết Minh, Chu Thanh Hương, hay Phương Nhung (thời kỳ đầu) là những người như vậy. Còn thời của em thì em biết đến Quỳnh Liên, Tuyết Tuyết, Minh Châu, Quỳnh Hoa (hơi đuối hơn) … Rõ ràng nghe họ hát thì không thể phân biệt được chuyên hay không chuyên, càng không thể gọi họ là dân nghiệp dư. Có lẽ ở đây chuyên hay không chuyên chỉ là nói đến họ có qua trường lớp chính quy hay không mà thôi. Trong nghệ thuật thì trường lớp không phải là yếu tố quyết định tất cả. Còn nói dến các nam ca sỹ không chuyên thì em biết Đức Diên qua Một thoáng Tây Hồ, Mỗi bước ta đi thêm yêu Tổ quốc. Anh này năm kia còn xuất hiện để bình luận về các Sao Mai dòng thính phòng và dân gian. Nhưng theo em “hiện tượng” trong phong trào “Khắp nơi ca hát” phải là Tốp nam nhà máy toa xe Hải Phòng. Hình như ông Huy Túc là từ đây mà ra? Có lẽ phải gọi họ là một đoàn ca nhạc chuyên nghiệp mới đúng. Cứ nghe họ hát Đêm Trường Sơn nhớ bác, Đường tàu mùa xuân, Ta ra trận hôm nay … thì có lẽ chỉ có AC&M hiện nay nếu chưa tan rã mới có thể cover lại được J

Thôi nói tới AC&M là phải nói đến thế hệ trẻ sau này rất lâu rồi. Em sẽ trở lại và hầu chuyện anh về “hình sin” trong đồ thị âm nhạc Việt Nam vào lần sau, trong đó có sự hồi sinh của dòng nhạc kinh điển sau đỉnh cao và bão hòa của nhạc trẻ Việt Nam. Còn bây giờ chúng ta nghe AC&M hát Anh vẫn hành quân của Huy Du. Băng tư liệu này lấy từ Live show Con đường Âm nhạc số 18- Chân dung nhạc sỹ Huy Du.

---

* Trần Thanh Tú: Bạn diễn trong những năm 80's của các ca sỹ Ái Vân, Lệ Quyên, Họa Mi, Thanh Lam... Là học trò của Quý Dương, Diệu Thúy. Anh Tú từng là giám khảo chấm Hồng Nhung trong một cuộc thi năm 1987

Friday, 13 March 2009

Lướt sóng ra khơi (March 14, 2009)



Nghệ sỹ Bích Toàn, nguyên diễn viên Đoàn Ca Múa Tổng cục Chính trị QĐNDVN, chị gái của Nghệ sỹ ưu tú Ánh Tuyết, giảng viên Nhạc viện Thành phố Hồ Chí Minh. Với chất giọng bay bổng, trong sáng và mượt mà, kỹ thuật thanh nhạc điêu luyện, nhạc cảm đầy đặn, chứa chất trong đó cả những tố chất của Thanh Huyền hay Vũ Dậu, Bích Toàn đã trở thành người "đo ni, đóng khuôn" cho hàng loạt các ca khúc như Khi ta có mặt trời chân lý của Phạm Tuyên, ý thơ Chế Lan Viên, Hát ru trong đêm pháo hoa của Hoàng Vân, Người sống mãi trong lòng miền Nam của Nguyễn Đồng Nai. Cô là người lĩnh xướng trong dàn hợp xướng Tổng cục chính trị trong hàng loạt các ca khúc và tổ khúc ca ngợi Tổ quốc, ca ngợi quân đội. Cùng thế hệ với Bích Toàn, chúng ta biết đến NSND Doãn Tần, NSƯT Thúy Mỵ, cũng thuộc TCCT. Hiện nay Bích Toàn đang giảng dạy thanh nhạc tại Thành phố Hồ Chí Minh.

Lướt sóng ra khơi được Nghệ sỹ Bích Toàn hát vào tháng 12 năm 1977. Trong thời gian này và nhiều năm trước đó, Bích Toàn gắn bó với binh chủng hải quân của Quân đội nhân dân Việt Nam. Ngay từ khi đất nước chưa thống nhất, Bích Toàn đã theo phái đoàn quân sự 4 bên vào biểu diễn tại Sài Gòn. Được biết chuyến đi bằng đường biển của năm 1973 đó được Bích Toàn và nhiều nghệ sỹ khác coi là một đặc ân, một niềm tự hào vô bờ bến.

Lướt sóng ra khơi gần như được coi như bài hát truyền thống của Hải quân Việt Nam. Nét nhạc trầm hùng, giai điệu trải rộng mênh mông như sóng biển, nhịp nhàng như sóng vỗ thân tàu, có lúc lại trào dâng như những trận phong ba. Bích Toàn hát bài này với dàn nhạc Đoàn Ca múa Tổng cục chính trị. Điều đặc biệt là tiếng contrebasse bập bùng, dìu dặt trong phần nhạc đệm chính là tiếng đàn của phu quân của Bích Toàn.

Ngoài Bích Toàn, nghệ sỹ Quang Huy Nhà hát Ca múa nhạc Việt Nam cũng biểu diễn rất thành công bài này.

Wednesday, 7 January 2009

Chiếc ba lô và bài ca tình nguyện (January 07, 2009)



In memory of my two esteemed uncles who, like many comrades of theirs, laid down their lives in their twenties for our Fatherland's territorial integrity, for peace and for the revival of Cambodia.

Get this widget | Track details | eSnips Social DNA

Bài hát Chiếc ba lô và bài ca tình nguyện do nhạc sỹ Hoàng Tạo viết trong thời kỳ kẻ thù gây chiến tranh ở hai đầu biên giới của Tổ quốc chúng ta. Ngay từ khi mới ra đời, bài hát đã nổi tiếng với tiếng hát của Nghệ sỹ ưu tú Bích Việt, hát cùng Dàn nhạc Mùa thu do Nhạc sỹ Phú Quang phối khí và chỉ huy. Bài hát được thu thanh tại Đài Tiếng nói Việt Nam vào tháng 4/1979, thu cùng ngày với bài Hãy cho tôi lên đường của Hoàng Hiệp do Ái Vân hát.

Ngoài Bích Việt, chúng ta còn nhớ tới giọng hát hào sảng của Nghệ sỹ Quang Phác, hay giọng hát trong sáng, thiết tha của Nghệ sỹ Hà Vy.

Nghệ sỹ Bích Việt có cover lại bài hát này trong Album gần đây của cô, nhưng không thành công lắm do giọng hát của cô đã khô cứng, lại thêm phần hòa âm quá sơ sài.

img

img

img

img

Dẫu chỉ là hình ảnh biểu tượng...

---

CHIẾC BA LÔ VÀ BÀI CA TÌNH NGUYỆN

Sáng tác: Hoàng Tạo

.

Khi anh buộc gọn lại chiếc ba lô

Là khi con chim đậu cành gọi nắng xuân sang

Tiếng hót những gì mà ríu rít vui

Theo nhịp bước quân đi lấp lánh.

.

Ba lô nhẹ nhàng khẩu súng trong tay

Là bài ca tình nguyện vì Tổ quốc yêu thương

Chủ nghĩa Xã hội ngời sáng trong tim

Thôi thúc bài ca lên đường.

.

Cùng chiếc ba lô xinh mang theo kỷ niệm

Câu thơ tình yêu và lời hẹn ước lập chiến công với quê nhà.

Cùng những tháng năm biên giới nối biên giới

Chẳng còn được ngồi yên vì kẻ thù hòng gây đau thương lửa máu.

.

Gió đã nổi, tiếng thúc giục

Phải chặn tay bọn giặc

Từng tấc đất quê hương

Chẳng thể xa rời.

.

Bao la rộng dài Tổ quốc ta

Là trái tim nồng nàn người chiến sỹ

Gắn bó nghĩa tình cùng chiếc ba lô

Bao kỷ niệm ước mơ sáng

.

Ba lô nhẹ nhàng khẩu súng trong tay

Đời vui ta giản dị ngời sáng chiến công

Tiếng hô sẵn sàng lời chiếc ba lô

Lấp lánh màu lá xanh biên cương

Là dải quê hương ...

Thursday, 13 November 2008

Máu mặt (November 14, 2008)



Bức ảnh kia thì nhiều người biết rồi, nó là một minh họa khá hay về cuộc chiến biên giới Việt- Trung. Có người nói bức ảnh đó còn là cảm hứng cho một bài hát mà rất nhiều người Hoa trên thế giới biết, nhiều người Việt Nam cũng biết, đó là bài 血染的風采, đọc là "Xueran de Fengcai" hay "Hsüe-jan te Fung-t'sai", còn phiên âm Hán Việt theo mặt chữ là "Huyết nhiễm đích phong thái" (Đại Cồ Việt) hay "Phong thái huyết lương" (Công Tôn Sách), dịch nghĩa sang tiếng Anh là "the blood-stained flag", còn Google cho nghĩa thuần Việt tương đương rất máu là "Máu mặt" img.

Theo một người bạn học Asian studies thì:

"The song was written in 1987 in memory of those who died in the Sino-Vietnamese War of 1979 , which was a short but particularly bloody war between China & Vietnam, which ultimately resulted in a stalemate.( Xem cách Trung Quốc sân khấu hóa cuộc chiến tranh này ở đây)


However, after the Tian'anmen Massacre, the song began to be used by the survivors of the massacre to commemorate those who had died. The song became associated with the democracy movement within the People's Republic of China.( Nghe bài hát này ở đây)


It was famously sung by Anita Mui (每艷芳, Mei Yanfang, Mai Diễm Phương) for the 1st anniversary of the massacre in Hong Kong." (Nghe bài hát ở đây)

Well, here is a translation of the song:

血染的風采

The blood-stained flag

也許我告別 將不再回來,你是否理解?你是否明白?
Perhaps, when I leave I ,will never come back, can you understand? Can you comprehend?
也許我倒下 將不再起來,你是否還要永久的期待?
perhaps when I fall down I won't get back up, are you still going to expect me to be there?
如果是這樣 你不要悲哀 共和國的旗幟上有我們血染的風採。
If things are going to be like this
don’t be sorry
the elegant republic flag will be dyed with our blood.

也許我的眼睛 再不能張開,你是否理解我沉沒的情懷?
perhaps, I if I cannot open my eyes again,
can you understand my suppressed feelings?

也許我長眠 再不能醒來,你是否相信我化作了山脈?
Perhaps, I will never awake from the never-ending sleep,
Can you understand that I have turned into mountains, and rivers?

如果是這樣 你不要悲哀,共和國的土壤裡有我們付出的愛。
Let it be, don’t be sorry, we have devoted love to the republic’s soil.

如果是這樣,你不要悲哀,共和國的旗幟上有我們血染的風採。血染的風採。
If So, don’t be sorry
the elegant republic flag will be dyed with our blood.
----

Bản Hán Việt do Công Tôn Sách dịch: (xem Comment)

Có thể nghe qua các links dưới đây:

http://www.youtube.com/watch?v=uBOPgN08j2I&feature=related

http://www.youtube.com/watch?v=4ka-zqQ5vHI&feature=related

http://www.youtube.com/watch?v=tcYhEw4j-x0&feature=related

http://www.youtube.com/watch?v=EQW-0jpbVk4&feature=related

http://www.youtube.com/watch?v=BzCfSeMcb68&feature=related

http://www.youtube.com/watch?v=0NIJ9orgWks&feature=related

http://www.youtube.com/watch?v=ReflJVog-Ik&feature=related

http://www.youtube.com/watch?v=iOKVQbPrRks&feature=related

http://www.youtube.com/watch?v=LdT57wL9Y6I&feature=related

http://www.youtube.com/watch?v=5_IdpQ680oM&feature=related

http://www.youtube.com/watch?v=Q4_-AtXF1G4&feature=related

--

Monday, 1 September 2008

3 bài Ca ngợi Tổ quốc (September 02, 2008)



1. Tổ khúc CA NGỢI TỔ QUỐC- Sáng tác: Hoàng Vân- Trình bày Hợp xướng Sơn ca Đài TNVN và NSND Trần Khánh

To khuc Ca ngoi to quoc -

2. CA NGỢI TỔ QUỐC – Sáng tác : Hoàng Vân- Trình bày Tốp ca Việt Nam Thiếu nhi Hội- Thành phố Hồ Chí Minh (1978)

Ca ngoi To quoc - Hoang Van - Thieu nhi TP HCM

Trời cao trong xanh sương sớm long lanh mặt nước xanh xanh cành lá rung rinh .
Bầy chim non hót ca vang đàn bướm lượn bướm tung tăng lượn theo bước chân em đi tới trường. Mùa xuân đang đến, nhìn đất nước đổi mới muôn màu.
Trời xuân trong sáng, mang cho chúng em bao hy vọng. Nhờ có công lao Cách mạng mới có hôm nay sáng ngời. Đời đời ghi nhớ ơn Đảng Lao động Việt Nam. Nhớ ơn Cách mạng và Bác Hồ.

Cùng tiến bước dưới cờ, hát ca xây dựng. Tổ quốc đang đón chờ chúng em mau trưởng thành. Tương lai đang đón chờ tay em cùng noi gương các đàn anh. Tương lai đang đón chờ tay em đi xây dựng nước nhà.

Trời cao trong xanh sương sớm long lanh mặt nước xanh xanh cành lá rung rinh.
Bầy chim non hót ca vang đàn bướm lượn bướm tung tăng lượn theo bước chân em đi tới trường.

Hoa thơm bốn mùa. Đồng ruộng núi sông bao la. Nhớ ơn các anh trên đường tranh đấu tranh hiến dâng cho nước nhà. Anh Kim Đồng yêu dấu thấy chăng tiếng hát hôm nay, nghe thấy chăng anh Kim Đồng ơi. Tiếng ca yêu đời của anh hát lên như ngày xưa. Mãi mãi vẫn còn lý tưởng của anh hiến dâng cho chúng em đi tiếp tới ngày toàn thắng, ngày vinh quang. Đất nước đang mong chờ chúng em đi xây dựng. Ngày mai bao vinh quang đang chờ tay em.

Trời cao trong xanh sương sớm long lanh mặt nước xanh xanh cành lá rung rinh .
Bầy chim non hót ca vang đàn bướm lượn bướm tung tăng lượn theo bước chân em đi tới trường. Mùa xuân đang đến. Nhìn đất nước đổi mới muôn màu. Trời xuân trong sáng mang cho chúng em bao hy vọng. Nhờ có công lao Cách mạng mới có hôm nay sáng ngời. Đời đời ghi nhớ ơn Đảng Lao động Việt
Nam. Nhớ ơi Cách mạng và Bác Hồ. Ta đi tới! Ta đi tới! Ta đi tới! Ta đi tới!

3. CA NGỢI TỔ QUỐC – Sáng tác : Hồ Bắc- Trình bày: Hợp xướng Đài TNVN- Lĩnh xướng: NSND Trần Khánh (1962)

Ca ngoi To quoc - NSND Tran Khanh va Hop xuong Dai TNVN

Kìa dãi trường sơn uốn mình quanh ven bờ biển xanh, tiêng sóng ngoài khơi dồn xa xa những thuyền xuôi dong. kìa từng vạt lúa đùa trong nắng phất phơ nhẹ rung, kìa lấp lánh than trên tầng dưới trời trong.


Hồng Hà, Cửu Long nước hoà chung vào Biển Đông, Tiếng hát mẹ ru hời êm êm những chiều thôn làng Kìa từng nhà máy đỏ tươi ngói khắp tổ quốc tôi ấm no về khắp nơi. Ngàn lời hát ngàn lời ca ngợi đất nước ta, biển rộng sông dài bàn tay chúng ta dựng xây. Tình quê hương tha thiết dừa xanh bên bóng cau đát nước ta ngàn năm lịch sử dài lâu.

Non sông yêu dấu có những người dân cần lao hy sinh, đã bao máu xương đổ xuống quê hương cho đồng lúa tốt. Từ một mùa thu năm xưa đứng lên phất cao cờ bay, xua nghèo tăm tối, nay đổi mới ánh sao rực chiếu mái tranh ấm no từ lâu nhớ công ơn Đảng muôn đời.


Quê hương yêu dấu có những đàn em đùa trong đêm trăng, luỹ tre võng ru vọng tiến ai ca như mùa xuân đến. Kìa nhà sàn chênh vênh trên núi cao ánh sáng điện soi, xưa ngheo tăm tối, nay đổi mới, tiếng cười rộn rã bước chân thoát về chợ xa áo hoa Noọng cười với ta.


Hồng Hà Cửu Long nước hoà chung vào biển Đông, ánh sáng mùa thu còn sáng chiếu khắp non sông ta mang bầu máu nóng, tay ta xây cuộc sông. Việt nam yêu dấu là đất nước bốn mùa kết hoa mang nặng tình thiết tha, xuân về tươi sáng. Tiếng hát hoà không gian, mây đen rồi dần tan, ánh mắt tràn tươi vui say sưa ca muôn lời. Mối tình Tổ quốc tôi.

Wednesday, 20 August 2008

20082008 (August 20, 2008)



The best movie LOVE STORM soundtrack covered by Kenny Thái in Asia CD "Bão tình"

1. Bão tình- Nhạc chính trong phim Bão Tình- Sáng tác: Hoàng Trọng, ca sỹ Kenny Thái thể hiện lại

Bao tinh @ TMH - Kenny Thai

2. Trích đoạn phim Bão tình, starring Kiều Chinh, Hùng Cường. Khánh Ly thể hiện ca khúc.

Thursday, 14 August 2008

PAPA & MAMA (August 15, 2008)



Năm nay Rằm tháng Bảy trùng với ngày 15 dương lịch. Sự trùng hợp này chắc phải lâu lâu mới có. Đặc biệt nữa là ngày 15 tháng 8 dương lịch cũng là một ngày lễ quan trọng của châu Âu. Vào một ngày như hôm nay mà nghe lại hai bài Papa và Mama thì thật không có gì hợp lý bằng.

1. Suốt thời gian từ năm 1988 và nhiều năm sau đó, HỒNG NHUNG khuynh đảo các sân khấu trong nước với Papa. Giọng Hồng Nhung thuở ấy còn rất bản năng, rất mộc mạc, trong sáng. Đặc biệt nó trở nên vô cùng nồng nàn và da diết khi Hồng Nhung hát Papa. Phải thú thực là Hồng Nhung phát âm tiếng Anh khi đó không được tốt như sau này, nhưng dường như điều đó không làm ai bận tâm (cũng có thể thời đó ít người Việt Nam, nhất là ở miền Bắc, hiểu tiếng Anh). Trái lại mọi người đều có cảm nhận rằng Paul Anka dường như bị mất độc quyền bài hát này khi ca khúc bắt gặp giọng hát Hồng Nhung. Băng thu thanh dưới đây, Hồng Nhung thực hiện tại Phòng thu Đài TNVN vào năm 1989 cùng Ban nhạc của Đoàn ca nhạc nhẹ trung ương, Quang Vinh thực hiện phần phối khí. Cùng thời gian này Hồng Nhung thu thanh và "đóng đinh" cho hàng loạt bài hát như: Đàn sếu, Nhớ Hà Nội, Lời của gió, Tôi về đây nghe sóng, Bài thơ biển, Tiếng sóng, Cô bé vô tư, Rừng xanh yêu thương...

Có người gọi thuở Hồng Nhung hát Papa là thuở "Bống còn là Bống", "Bống ở còn ở trong ao". Đó là thuở mà nói tới nhạc nhẹ là phải nói tới Hồng Nhung (chứ chưa phải là Thanh Lam). Tiếng hát và phong cách biểu diễn của Hồng Nhung đã ngự trị trong đời sống âm nhạc bước đầu sôi động của giới trẻ của thời kỳ đó. Hồng Nhung là một "hiện tượng" của nhạc nhẹ miền Bắc thập niên 80-90.

Nguoi cha- Papa @ TMH - Hong Nhung

2. Trước khi được nghe Hồng Nhung hát Papa, thế hệ thiếu nhi của những năm 80's đã từng say đắm với một bài hát Ý do một giọng ca thiếu nhi trong Đội Sơn Ca của Đài Tiếng nói Việt Nam hát. Giọng hát mượt mà và vô cùng tinh khôi, trong trẻo của HẢI VÂN khi hát Mama có lẽ phải được coi là mẫu mực về thanh nhạc mà các bạn trẻ theo đuổi nghề hát phải noi theo, mặc dù rất có thể khi hát bài hát này, Hải Vân vẫn chỉ hát bằng giọng hát bản năng, bằng năng khiếu bẩm sinh và bằng cảm xúc trong sáng, chân thành của một em bé với người mẹ của mình. Hải Vân, Thu Băng, Hải Yến, Hồng Nhung, Minh Thúy, Thanh Tùng, Hồng Kỳ ... quả là những Sơn Ca bay mãi, hát mãi cùng thời gian

Mamma - Hai Van

3. Papa với tiếng hát trầm trầm khàn khàn của ca sỹ TRUNG HÀNH- Ban nhạc Mây Trắng của Sài Gòn trước 75.

4.Papa vu1edbi tiu1ebfng hu00e1t "chu00ednh chu1ee7" cu1ee7a Pauk Anka

5. Mama vu1edbi tiu1ebfng hu00e1t cu1ee7a Thu1ea7n u0111u1ed3ng Robertino

6. Paul Anka hu00e1t Papa vu1edbi du00e0n nhu1ea1c. Trong version nu00e0y Paul hu00e1t kiu1ec3u improvisation, thay u0111u1ed5i mu1ed9t su1ed1 nu1ed1t u1edf cuu1ed1i cu00e1c cu00e2u nhu01b0ng theme thu00ec vu1eabn giu1eef nguyu00ean. Nghe ru1ea5t lu1ea1 vu00e0 vu1eabn ru1ea5t hu1ee3p lu00fd. Xem vu00e0 nghe Paul biu1ec3u diu1ec5n Papa theo cu00e1ch nu00e0y chu1eafc nhiu1ec1u ngu01b0u1eddi su1ebd liu00ean tu01b0u1edfng tu1edbi Tru1ea7n Hiu1ebfu hay Lu00ea Dung cu1ee7a Viu1ec7t Nam. Tru1ea7n Hiu1ebfu thu01b0u1eddng xuyu00ean cu00f3 cu00e1ch xu1eed lu00fd cu00e1c bu00e0i hu00e1t vu00e0 biu1ec3u diu1ec5n nhu01b0 vu1eady. Cu00f2n Lu00ea Dung thu00ec u00edt nhu1ea5t cu0169ng u0111u00e3 biu1ec3u diu1ec5n Nu1ed7i nhu1edb vu00e0 Khu00fac mu00f9a thu cu1ee7a Phu00fa Quang tru00ean su00e2n khu1ea5u theo cu00e1ch tu01b0u01a1ng tu1ef1 (khu00e1c vu1edbi versions mu00e0 Lu00ea Dung thu CD). Yu1ebfu tu1ed1 cu0103n bu1ea3n u1edf u0111u00e2y lu00e0 cu00e1c nghu1ec7 su1ef9 nu00e0y u0111u00e3 hou00e0n tou00e0n lu00e0m chu1ee7 u0111u01b0u1ee3c giu1ecdng hu00e1t cu1ee7a mu00ecnh vu00e0 ku1ef9 thuu1eadt thanh nhu1ea1c, tu1edbi mu1ee9c hu1ecd cu00f3 thu1ec3 "u0111u00f9a nghu1ecbch", "tung hu1ee9ng" vu1edbi tu1eebng nu1ed1t nhu1ea1c, tu1eebng lu1eddi ca. Thu00eam vu00e0o u0111u00f3 lu00e0 su1ef1 nhu1eadp tu00e2m tuyu1ec7t u0111u1ed1i ca tu1eeb vu00e0 tinh thu1ea7n cu1ee7a bu00e0i hu00e1t khiu1ebfn cho hu1ecd hu00e1t mu00e0 nhu01b0 u0111ang ku1ec3 chuyu1ec7n, u0111ang lu00ean u0111u1ed3ng...

7. Clip dưới đây chắc do hai cha con của một gia đình nào đó thực hiện và upload lên mạng. Ai quan tâm tới lyrics thì có thể tìm thấy ở clip này. Trong clip, giọng cháu bé có nét giống bé Xuân Mai hồi nhỏ. Cháu hát không faux, chênh và bám nhịp khá tốt. Người Bố hát cũng hay. Mỗi tội ông ấy mà là người Việt thì sẽ bị phê bình là "tạo sạn" cho bài hát vì đã phát âm từ DIED quá đúng nốt nhạc nên người Việt Nam sẽ nghe thấy từ đó là "pipi"...

Wednesday, 13 August 2008

Theo chân những tiếng hát (August 14, 2008)



Khánh Ly hát "Tình cuối tình đầu" của Trầm Tử Thiêng trước 1975 (Băng nhạc Premier 1)

Khu00e1nh Ly hu00e1t "Tu00ecnh cuu1ed1i tu00ecnh u0111u1ea7u" trong CD Kinh khu1ed5 (1995)

:::Hồ Trường An :::

Theo Chân Những Tiếng Hát: KHÁNH LY

Năm 1967, Trịnh Công Sơn để thay thế Lệ Thu đã từ chối không theo anh dấn bước du ca nên đã tìm gặp một giọng hát độc đáo ở Ðà Lạt. Ðó là Khánh Ly, ái nữ của một cựu hoa khôi đầu tiên ở Hà Nội. Khánh Ly không hưởng được cái quốc sắc của mẹ, nhưng vẫn làm khuynh đảo cả một thế hệ qua tiếng hát cực kỳ say đắm của cô. Hơn nữa, tuy cô không đẹp lắm, nhưng cô có cái duyên nồng mặn. Khuôn mặt cô khi xuất hiện trên Tivi thì ăn ảnh kỳ diệu. Khánh Ly không hề phủ nhận rằng mình đã nhờ khoa giải phẩu thẩm mỹ để khoét cho cặp mắt thêm rộng. Nhưng dù gì thì dù, cặp mắt một mí của cô khi chưa cần tới mỹ viện dù hơi nhỏ, nhưng cái nhìn cô bao la, cực kỳ niềm nở thân tình. Cặp môi Khánh Ly khi ngậm im thì thanh tú và có vẻ nũng nịu. Nhưng khi cô cười, cặp môi cô tươi sáng hẳn lên, khóe mắt và thần thái cô cũng sáng nữa. Tôi rất thích ngắm cô trong những chiếc áo dài mini bằng tơ lụa nội hóa dệt mặt nguyệt màu thúy ngọc, màu nguyệt bạch, màu vảy kim ngư, màu “boọc-đô”, màu beige hơn là chiếc áo dài surat vẽ những bông hoa choáng lộn màu sắc như hoa trong các bức tranh dã thú của Matisse.


Tôi gặp Khánh Ly vào năm 1968, vào dịp tôi viếng Trịnh Công Sơn tại quán Văn lúc trời mới rựng sáng. Ở đó, cuộc sinh hoạt vừa bắt đầu. Sơn nhờ tôi xem chỉ tay cho Khánh Ly. Ai chứ Sơn rất tin tưởng khoa nầy, nhất là cái tài tiên tri của tôi. Hôm đó, tôi nói gì với Khánh Ly mà cô chỉ cười chấm câu, tỏ vẻ không mấy nhiệt thành như Sơn. Số là, trước đó nửa năm, Trịnh Công Sơn có nhờ tôi xem chỉ tay cho anh. Tôi ngắm nghía hình ngôi sao trên gò Thái Dương ở bàn tay phải của anh, quả quyết bảo:


- Ông có ngôi sao năm cánh rực rỡ như thế nầy mà không nổi tiếng được thì lạ thật. Thôi từ đây tới ba năm nữa nếu ông không nổi tiếng thì đem con dao lại đây vanh hết hai bàn tay tôi đi.

Trịnh Công Sơn không cần đợi ba năm. Chỉ có nửa năm thôi mà tên tuổi anh và tên tuổi Khánh Ly nổi như cồn, làm bàng hoàng ngây ngất một thế hệ.


Năm 1970, tôi nhảy vào nghề lính văn phòng, viết truyện ngắn lai rai cho tạp chí Tiểu Thuyết Thứ Năm. Tôi thường tháp tùng nhà thơ Phổ Ðức tới quán Cây Tre thăm Khánh Ly và nhất là thăm nữ ca sĩ Uyên Phương, một giọng ca mà tôi hằng mến mộ. Thuở đó, Khánh Ly cùng Uyên Phương và Phương Hồng Hạnh lập ban Tam ca Ba Trái Xí Mụi. Tôi không hiểu vì sao có một dạo Khánh Ly tỏ ra lạnh nhạt và có vẻ hầm hừ với tôi. Truy ra, tôi có giỡn nhột Trịnh Công Sơn trong một bài báo khi anh tuyên bố rằng giọng anh sẽ thu vào dĩa vàng để hát chung với Joan Baez, Bob Dylan và Judy Garland. Trong bài ấy hình như tôi có chê anh hát hơi sai (faux) khi lên tới nốt cao, như thế thì làm sao anh hát chung với một danh ca cừ khôi kiêm minh tinh màn bạc lẫy lừng như Judy Garland được? Khánh Ly binh Trịnh Công Sơn mắng vói tôi qua ký giả Trần Quân:


- Cái thằng H.T.A là lính sữa Babylac, đã làm được gì chưa mà phách lối, xấc xược!


Kể từ đó, cô và tôi hễ chạm mặt nhau thì cô làm cái mặt nặng chầm vầm như cái cối đá, còn tôi làm cái mặt lạnh ngắt như khứa cá thu ướp muối nước đá. Rồi đó, sau 1975, tôi còn kẹt ở Việt Nam. Một hôm Trịnh Công Sơn lên Làng Báo Chí để viếng nhà họa sĩ Trương Ðình Quế, có đi ngang qua nhà tôi. Tôi kêu anh vào chơi. Nhân dịp đó tôi mắng:


- Ông không biết dạy cô đệ tử của ông. Tôi lớn hơn ông một tuổi, tức là lớn hơn anh chồng Nguyễn Hoàng Ðoan của cô ta ít nhất 3 hay 4 tuổi. Vậy mà cô mắng tôi còn con nít mà đã xấc xược.


Vật đổi sao dời, thấm thoát mà chỉ còn 5 năm, tôi bước vào tuổi 60. Vào năm 1992, nhân dịp đi Paris trình diễn, Khánh Ly có phone cho tôi để cám ơn tôi, rằng dù có chánh kiến bất đồng với Trịnh Công Sơn, nhưng tôi vẫn viết tốt cho Trịnh Công Sơn trong quyển ký sự văn học Cõi Ký Ức Trăng Xanh. Cả hai, sau 21 năm (từ 1972 cho tới 1993) mới tái ngộ nên mừng thôi là mừng. Tôi cảm động đến rưng rưng nước mắt. Qua cuộc điện đàm, tôi không dè cô lại thích đọc tiểu thuyết của tôi và mua khá nhiều những quyển của tôi do Ðại Nam xuất bản. Cô dặn:


- Anh nên viết chuyện đồng quê ở cố hương cho Mai đọc. Ðừng viết mấy chuyện bên Tây, đọc chán thấy mồ! Nhứt là anh nên mô tả các món ăn cho thiệt nhiều, thiệt ngon.


Hôm đó, tôi có nhắc lại lời cô nhiếc mắng tôi hồi 21 năm về trước, cô bảo rằng cô quên hết rồi, chẳng biết có nói lời thô, lời ác ấy hay không. Và cả hai cười xòa thông cảm. Tôi có bảo cô rằng vào năm 1975, tôi không ra trình diện với chế độ Quân quản của Cộng Sản để khỏi đi học tập cải tạo. Nhưng Trịnh Công Sơn vẫn làm ngơ không vì bài báo giỡn nhột cũ của tôi mà tố cáo tôi với chính quyền cộng Sản.


Nói có Trời làm chứng, thuở xưa tuy ghét Khánh Ly nhưng tôi chưa hề viết bài báo nào để đánh gục cô ta, nếu không bảo là khen giọng hát đặc biệt của cô ta. Vả lại lúc đó ngôi sao danh vọng cô ta đang lên ngự đỉnh vòm trời ca nhạc, tôi dại gì chơi cái trò dã tràng xe cát Biển Ðông, dại gì đem một cái khăn mu-soa để mong che một vùng nắng sáng bao la hay đem một gáo nước để mong dập tắt một đám hỏa hoạn hay sao?


Giọng Khánh Ly đặc sánh như cao hổ cốt, như mật ong, đôi lúc nẩy lóe những âm vang giòn và sang sảng . Một giọng kỳ lạ, khàn khàn như phưởng phất hơi khói thuốc lá mà vẫn trơn ngọt khỏe khoắn làm cho tâm trí thính giả trôi lênh đênh vào cơn mơ mòng ngây ngất. Giọng Khánh Ly là giọng alto, nhưng cô có thể xuống trầm đòi hỏi ở một giọng contralto được, tuy nhiên âm lượng của giọng cô ở những nốt nhạc thật trầm ấy không dũng mãnh và không thừa làn hơi để ngân nga. Cũng như Lệ Thu, Khánh Ly hát không chút õng ẹo. Nhưng giọng cô vẫn đẹp, vẽ nên cảnh hoang vu chìm trong sương mù, vẽ nên cảnh đêm trăng mờ ảo ở chốn mạn rợ thời khuyết sử. Chuỗi ngân của Khánh Ly óng ả, trơn ngọt, gờn gợn sóng thu. Chuỗi ngân ấy điêu luyện và đẹp hơn chuỗi ngân của Lệ Thu nhiều. Giọng hát cô đen và đắng nhưng pha ngọt có thể làm cho chúng ta liên tưởng đến hương vị ngon tuyệt vời của ly cà phê phin. Tiếng hát đó trên sân khấu có thể lan rộng khắp hí viện một âm vọng vừa huyền hoặc vừa ma quái làm cho ý tình trong những bài Phận Ca của Trịnh Công Sơn được bộc lộ gần như trọn vẹn.


Từ năm 1975, Khánh Ly là vợ của Nguyễn Hoàng Ðoan, ký giả kiêm nhà văn viết tiểu thuyết phóng sự. Ðộc giả thuộc thế hệ tôi chắc không quên Ðoan viết phóng sự rất lỗi lạc (như quyển Bà Lớn chẳng hạn). Khi làm thơ, anh ký tên Triều Sao Ðại. Thơ, văn , nghệ thuật làm báo của anh đều có bản lĩnh cả. Về báo chí và chuyện đi và sống, tôi kém anh rất xa. Vì rằng trước 1975, tôi chỉ là con mọt sách, chứ đi và sống rất ít. Giờ đây, tôi nằm khèo dưới mái Cổ Nguyệt Ðường, ngại đi xa lắm. Biết được Khánh Ly hạnh phúc với Ðoan tôi rất mừng. Tuy là nhà báo mà anh vẫn có tâm hồn nghệ sĩ, tôi tin rằng hai vợ chồng anh luôn tâm đầu ý hiệp với nhau.


(Trích Theo Chân Những Tiếng Hát . Tổ Hợp Xuất Bản Miền Ðông Hoa Kỳ 1998)