Showing posts with label nhạctrữtữh. Show all posts
Showing posts with label nhạctrữtữh. Show all posts

Thursday, 2 April 2009

Trịnh Công Sơn và Chính trị (April 03, 2009)

Video minh họa : Cuối cùng cho một tình yêu. Nhạc của Trịnh Công Sơn, Thơ của Trịnh Cung, Khánh Ly hát trong Asia Video số 10 « Thơ & Nhạc »

Bài viết gây chấn động của Họa sỹ Trịnh Cung về Nhạc sỹ tài hoa Trịnh Công Sơn đăng trên Tạp chí Da Vàng ngày 29/3.2009 :

Đã 8 năm kể từ ngày mất của Trịnh Công Sơn, 01-4-2001. Đã có rất nhiều bài và sách viết về người nhạc sĩ tài hoa xuất chúng này. Tất cả đều chỉ nói về 2 mặt: tình yêu (con người, quê hương) và nghệ thuật ngôn từ trong ca khúc Trịnh Công Sơn, tuyệt nhiên không thấy ai đề cập đến vấn đề Trịnh Công Sơn có hay không tham vọng chính trị. Phải chăng như Hoàng Tá Thích, ông em rể của người nhạc sĩ “phản chiến” huyền thoại này đã minh định trong bài tựa cuốn sách Như Những Dòng Sông của mình nói về âm nhạc và tình người của ông anh rể Trịnh Công Sơn, do nhà Xuất Bản Văn Nghệ và Công Ty Văn Hoá Phương Nam ấn hành năm 2007: “…Anh không bao giờ đề cập đến chính trị, đơn giản vì anh không quan tâm đến chính trị”? Hay như nhận định của một người bạn không chỉ rất thân mà còn là một “đồng chí” (trong ý nghĩa cùng một tâm thức về chiến tranh VN) của Trịnh Công Sơn, hoạ sĩ Bửu Chỉ (đã mất) đã viết: “Trong dòng nhạc phản chiến của mình, TCS đã chẳng có một toan tính chính trị nào cả” (Trích bài viết: “Về Trịnh Công Sơn và Những Ca Khúc Phản Chiến Của Anh”, in trong Trịnh Công Sơn, Cuộc Đời, Âm Nhạc, Thơ, Hội Hoạ & Suy Tưởng do Nhà Xuất Bản Văn Hoá Sài Gòn ấn hành năm 2005)?

Sự thực có đúng như câu khẳng định chắc nịch ở trên của ông Hoàng Tá Thích và hoạ sĩ quá cố Bửu Chỉ? Chắc chắn là sai 100% rồi nếu như Trịnh Công Sơn không là tác giả của 3 tập nhạc phản chiến (Ca Khúc Da Vàng, Kinh Việt Nam và Ta Phải Thấy Mặt Trời), và cũng chưa từng tham gia vào Phong trào Đấu tranh Đô thị của Thanh niên Sinh viên Học sinh để chống Mỹ và chính quyền Sài Gòn mà chính cuốn sách của Hoàng Tá Thích và bài viết của Bửu Chỉ vừa nhắc đến ở trên đã có nhiều tiết lộ. Mặt khác, trong bài viết “Có Nghe Ra Điều Gì” Trịnh Công Sơn gửi cho bác sĩ Thân Trọng Minh tức nhà văn Lữ Kiều năm 1973 có đoạn như sau: “…Chưa bao giờ tôi có ý nghĩ tự đề nghị với mình một trách nhiệm quá lớn, nhưng khi đã lỡ nhận chịu những cảm tình nồng hậu từ đám đông, thì những tình cảm kia phải được đền bồi…”. Và trong thư TCS gửi cho Ngô Kha - người bạn cùng chí hướng chính trị và cũng là người em rể, đồng thời là lãnh tụ của Chiến đoàn Nguyễn Đại Thức này đã bị Công An Huế bắt (1972-1974) - chúng ta sẽ dễ nhận ra ý thức làm chính trị chống chế độ Sài Gòn của Trịnh Công Sơn. Nhất là trong đoạn Lê Khắc Cầm nói về mối quan hệ giữa TCS và tổ chức cơ sở thành uỷ Huế do Lê Khắc Cầm bí mật phụ trách trước 1975 như thế nào, thì không thể nói là TCS không có toan tính chính trị như nhận định của hoạ sĩ Bửu Chỉ (Xin xem thêm Thư TCS gửi Ngô Kha và đoạn trao đổi về lá thư này giữa Nguyễn Đắc Xuân và Lê Khắc Cầm trong phần tư liệu đính kèm bài).

Trước khi nêu thêm những dẫn cứ quan trọng hơn để chúng ta có cái nhìn rõ hơn về thái độ chính trị của TCS thời chiến tranh VN, và cũng nhằm cung cấp thêm tư liệu để làm rõ các mối quan hệ có tính dính líu vào hoạt động chính trị phản chiến thân Cộng của TCS, tác giả xin kể một kỷ niệm với Ngô Kha và vì sao Ngô Kha lấy tên cho lực lượng đấu tranh của mình là Chiến đoàn Nguyễn Đại Thức.

Vào năm 1971, tôi có mời Ngô Kha tới dự bữa cơm đầy năm Vương Hương, con đầu lòng của tôi tại nhà ở Phú Nhuận. Sau tàn tiệc, tôi đưa Ngô Kha ra về. Chúng tôi đi bô từ ngã tư Phú Nhuận về hướng cầu Kiệu, khi gần đến chân cầu, Ngô Kha nói với tôi: “Cậu vào chiến khu với mình đi, có người dẫn đường đang chờ”. Tôi không ngờ lại bị Ngô Kha đưa vào thế kẹt. Lúc này, tôi đang là Trung Úy biệt phái dạy tại Trường Cao Đẳng Mỹ Thuật Huế, vừa bị Nha Mỹ Thuật Học Vụ trả về lại Bộ Quốc Phòng vì được Mỹ cấp học bổng tu nghiệp mỹ thuật tại Trung Tâm Đông và Tây, Hawaii, Hoa Kỳ (Sau 1975 tôi mới biết ông Nguyễn Văn Quyện, kiến trúc sư, Giám đốc Nha Mỹ Thuật Học Vụ, người ký quyết định không cho tôi đi Mỹ và trả tôi lại quân đội theo đề nghị của hoạ sĩ Vĩnh Phối - Hiệu trưởng Trường CĐMT Huế, cả 2 đều là Việt cộng nằm vùng), và Ngô Kha đang là em rể của Trịnh Công Sơn, cũng mang cấp bậc thiếu uý Quân lực VNCH có tư tưởng phản chiến, nhưng tôi không biết gì về hoạt động ly khai của anh cho tới lúc này. Thật bất ngờ và căng thẳng, làm sao tôi có thể đi về phía bên kia chiến tuyến? Tôi không hề tham gia vào phong trào phản chiến, tôi chơi với Trịnh Công Sơn, Ngô Kha, Hoàng Phủ Ngọc Tường, Đinh Cường khi họ chưa là người chống lại chế độ Việt Nam Công Hoà. Ngay cả tại “túp lều cỏ” Tuyệt Tình Cốc ở Huế, nơi mà nhà văn Thế Uyên trong một bài viết của anh có tên “Cuộc Hành Trình Làm Người Việt Nam Qua Trịnh Công Sơn” đã tự bạch anh từng đến dự những cuộc họp bàn về đấu tranh chính trị do nhóm Hoàng Phủ Ngọc Tường, Trần Quang Long, Nguyễn Đắc Xuân và Trịnh Công Sơn đứng ra tổ chức, tôi cũng chưa bao giờ đặt chân đến đó và thậm chí không hề biết có những việc như thế. Đơn giản vì tôi rời Huế vào sống ở Sài Gòn sau khi tốt nghiệp Mỹ thuật năm 1962, mối quan hệ giữa tôi và họ chỉ là một tình bạn văn nghệ thuần tuý. Để thối thác lời đề nghị ghê gớm này của Ngô Kha, tôi dừng lại trong bóng đêm bên này cầu Kiệu và nói với anh:”Ông thấy con mình vừa đầy năm, bà xã còn quá trẻ và yếu đuối, làm sao mình bỏ nhà đi vào căn cứ với bạn được. Hơn nữa mình không đồng ý cách giết người của họ ở Huế hôm Tết Mậu Thân… thôi chúc bạn lên đường may mắn!”. Thế nhưng, sự việc sau đó lại đưa Ngô Kha đến một hoàn cảnh khác. Anh không đi vào rừng mà về Huế rồi bị bắt và chịu một cái chết bi thảm.

Về Nguyễn Đại Thức là ai mà Ngô Kha dùng đặt tên cho lực lượng đấu tranh của mình?

Theo Nguyễn Đắc Xuân, Nguyễn Đại Thức nguyên là một hạ sĩ quan quân lực VNCH ly khai đã bắn hụt tướng Huỳnh Văn Cao khi ông dùng trực thăng kiểm soát tình hình Phật giáo xuống đường ở Đà Nẵng và Huế, và đã bị lính Mỹ bắn hạ. Hành động và cái chết của Nguyễn Đại Thức đã đưa Ngô Kha đến sự chọn lựa Nguyễn Đại Thức là tên và biểu tượng cho nhóm quân nhân ly khai đấu tranh chống Mỹ Nguỵ do anh tổ chức. Sau đây là đoạn viết của Hoàng Phủ Ngọc Tường trong Căn Nhà Của Những Gã LangThang: “…Theo tin tức quân báo của Kha nhận từ đoạn Đà Nẵng, thì lực lượng thuỷ quân lục chiến của Kỳ sẽ chĩa mũi nhọn vào những người của phong trào mà họ cho là nguy hiểm, ngay từ lúc họ đặt chân đến Huế để tránh hậu hoạ. Ngô Kha cùng đi với chiến đoàn ly khai của anh sẽ kéo dài cuộc cầm cự trên đèo Hải Vân, để tạo điều kiện cho tôi thoát…”. Đối với cá nhân tôi, nhờ tiết lộ kinh khủng này của Hoàng Phủ Ngọc Tường, những năm gần đây, tôi mới biết mình đã từng bị Ngô Kha dùng tình bạn để đưa vào cái gọi là Chiến đoàn ly khai Nguyễn Đại Thức mà không biết khi anh rủ tôi đi vào cứ như đã nói ở trên. May mà tôi đã từ chối.

Với bao nhiêu sự việc gắn kết với nhau, hoà quyện, ăn khớp, như thế mà chúng ta vẫn còn hoài nghi, vẫn biện bạch đây chỉ là một thứ tình cảm hồn nhiên hay hoa mỹ hơn, đấy là ý thức về thân phận dân tộc, tiếng nói đòi hoà bình đậm tính nhân bản cho quê hương của một người nghệ sĩ tài hoa như TCS, thì chi tiết sau đây đã được Nguyễn Đắc Xuân tiết lộ và đã xác nhận lại với tác giả bài viết này như sau: “Vào đêm ngày 29-5-1966, trên đường Trần Bình Trọng-Đà Lạt, Trần Trọng Thức (nhà báo), Nguyễn Ngọc Lan (linh mục, đã chết), Nguyễn Đắc Xuân và Trịnh Công Sơn đã cùng nhau bàn về một giải pháp chính trị cho trí thức yêu nước và người đưa ra sự chọn lựa rất quyết đoán và hợp ý với 3 bạn đồng hành với mình: “Không có con đường nào khác cho anh em mình ngoài Mặt trận Giải Phóng Miền Nam!”.

Vậy là đã quá rõ về khuynh hướng chính trị của Trịnh Công Sơn!

Từ Chính Trị Phong Trào đến Chính Trị Cầm Quyền?

Vỡ mộng chính trị cầm quyền

Những ngày trước 30-4-75, Sài Gòn rơi vào tình trạng hỗn loạn. Người thân cộng thì hí hửng, người quốc gia thì lo âu và tìm đường bỏ nước. Mọi thứ sinh hoạt đều tê liệt, tôi nằm trong số người chịu trận, bế tắc, no way out. Trong thời điểm tinh thần sa sút này, tôi thường ghé qua nhà TCS để tìm một thông tin tốt lành vì anh có nhiều mối quan hệ, nhưng cũng không được gì vì TCS từ chối ra đi và cho biết sắp nhận chức Quốc Vụ Khanh đặc trách văn hoá trong chính phủ Dương Văn Minh lên thay Thiệu-Kỳ, em trai TCS là đại uý Trịnh Quang Hà sẽ được giao làm Cảnh sát Trưởng quận 2 (nay là quận 1). Thế là xong, TCS sẽ tham gia chính quyền được chuyển từ tay Nguyễn Văn Thiệu để thương lượng hoà bình với quân GP đang bao vây Sài Gòn và doạ sẽ tắm máu Sài Gòn nếu VNCH không buông súng.

Thế nhưng, TCS và người em không có tên trong thành phần chính phủ Dương Văn Minh khi các hệ thống thông tin quốc gia công bố ngày 27-4-75 và cũng không có tên kiến trúc sư Nguyễn Hữu Đống trong vai đệ nhất Phó Thủ Tướng - người bạn chính trị không lộ diện của TCS từ trước sự kiện Tết Mậu Thân 1968, một cố vấn chính trị, một công trình sư cho sự nghiệp chính trị của TCS, đã vận động cho TCS vào chính phủ này như là đại diện của phe Phật giáo. Và với kết quả này, nhà hoạt đầu chính trị trẻ tuổi Nguyễn Hữu Đống đã phải rời khỏi nhà TCS ngay sau đó, sau khi đã ăn ở trong nhà TCS nhiều tháng trước như một người em rể.
Sau này, trong thời Lý Quí Chung còn sống, tôi có hỏi về sự việc này. Với tư cách là một Bộ trưởng Thông Tin và người rất thân cận với tướng Dương Văn Minh, Lý Quí Chung đã xác nhận: không hề có một đề cử nào cho TCS và Nguyễn Hữu Đống vào chính phủ Dương Văn Minh cả. TCS và gia đình đã bị Nguyễn Hữu Đống lừa rồi! Và từ đó TCS đã coi Nguyễn Hữu Đống là kẻ ghê tởm.

Một chút về Nguyễn Hữu Đống

Nguyễn Hữu Đống tốt nghiệp thủ khoa Trường Kiến Trúc Sài Gòn khoảng năm 1964 nhưng không hành nghề kiến trúc sư, bắt đầu chơi thân công khai với Trịnh Công Sơn vào khoảng 1970. Tôi không được biết gì nhiều về nhân vật này ngoài việc chứng kiến sự xuất hiện thường xuyên trong nhà TCS những tháng trước 4/1975 với tư cách em rể TCS, giữa lúc Sài Gòn liên tiếp nhận những thông tin về các tỉnh Tây Nguyên thất thủ, và cũng được biết từ TCS vào những ngày cuối của tháng 4/1975 là: chính quyền mới sẽ vẫn giữ nguyên chiếc ghế Đệ nhất Phó Thủ Tướng của chính phủ đầu hàng Dương Văn Minh (tức ghế của Nguyễn Hữu Đống). Sau đó, Nguyễn Hữu Đống đã vượt biên và định cư ở Pháp.

Thế nhưng, vào khoảng năm 1992, Nguyễn Hữu Đống về Sài Gòn và tìm thăm tôi. Tôi tiếp anh tại nhà và cùng ăn trưa. Thật ra, giữa tôi và Nguyễn Hữu Đống không đủ thân để anh tìm thăm, chẳng qua là chỗ để anh trút hết những gì TCS và gia đình không tiếp khi anh tìm đến thăm họ sau hằng chục năm ly gián từ ngày ấy. Trong những thổ lộ của Nguyễn Hữu Đống có 2 chi tiết đáng chú ý: Một là: Ý tưởng và mô hình kiến trúc Ngôi Đền Tình Yêu có hình quả trứng (lấy từ truyền thuyết Âu Cơ đẻ ra 100 trứng) để TCS chủ trì như một giáo đường là của Nguyễn Hữu Đống; Hai là: để Ngôi Đền Tình Yêu này mang đậm sắc thái TCS, Nguyễn Hữu Đống lập ý cho TCS viết Kinh Việt Nam. Dự án này tôi đã được TCS cho biết trước năm 1975 và sẽ xây dựng trên ngọn đồi của Bác sĩ Bùi Kiện Tín ở Thủ Đức, nằm đối diện với nghĩa trang quân đội Sài Gòn cũ. Xét về mặt tài năng kiến trúc và con người đầy tham vọng làm chính trị của Nguyễn Hữu Đống cũng như mối quan hệ mang tính chính trị giữa anh và TCS thì thông tin này đáng tin hơn là gần đây có nghe dư luận từ Phạm Văn Hạng là dự án này của Phạm Văn Hạng và TCS được ông Võ Văn Kiệt ủng hộ?

(Để biết thêm mối quan hệ chặt chẽ giữa TCS và Nguyễn Hữu Đống, xin độc giả đọc thêm đoạn trích dẫn trong phần ghi chú cuối bài viết này, câu Lê Khắc Cầm trả lời phỏng vấn Nguyễn Đắc Xuân về TCS).

Bài Học Lớn Cho Người Làm Chính Trị Tự Phát Trong Xã Hội CSVN

Những Gáo Nước Lạnh Ngày “anh em ta về”

Tuy nhiên, sau sự thất bại ấy, TCS lại đứng lên vui mừng vì Sài Gòn của anh trong ngày 30-4-75 đã xuất hiện: “Cờ bay trăm ngọn cờ bay” và“anh em ta về mừng như bão cát quay cuồng…”. Từ sự kiện tại Đà Lạt mà Nguyễn Đắc Xuân đã nhắc đến ở trên cho đến ngày 30-4-75 không có một chỉ dấu nào cho thấy có mối liên lạc về mặt tổ chức giữa Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam và Trịnh Công Sơn. Thậm chí khi anh được kiến trúc sư Nguyễn Hữu Thái đưa đến Đài Phát Thanh Sài Gòn để hát bài Nối Vòng Tay Lớn mừng chiến thắng lịch sử 30-4-75, TCS, tác giả của ca khúc có tính dự báo cho ngày huy hoàng này của quân Giải phóng và bi thảm cho phía VNCH, cũng bị Tôn Thất Lập, một nhạc sĩ chủ chốt trong phong trào Hát Cho Đồng Bào đã thoát ly đi theo MTGPMN, đuổi ra khỏi phòng thu: ”Mày có tư cách gì mà hát ở đây!”…

Bị bất ngờ với cú ra đòn khá tàn nhẫn này của người “anh em”, TCS thật sự choáng váng và sợ hãi, mọi niềm hân hoan trong anh về giấc mơ hoà bình cho đất nước của mình nay đã thành hiện thực bỗng chốc tan thành mây khói. Niềm vui tưng bừng reo ca “…Mặt đất bao la / anh em ta về / Gặp nhau mừng như bão cát quay cuồng trời rộng/ Bàn tay ta nắm nối tròn một vòng Việt Nam…” (Nối Vòng Tay Lớn) hôm ấy không thuộc về TCS, và thay vào đó là nỗi ám ảnh sắp bị thủ tiêu và phải làm thế nào chạy trốn khỏi “người anh em” càng sớm càng tốt.

Thật ra, tai nạn chính trị này đã có nguồn gốc từ quan điểm chính về tính hai mặt trong âm nhạc và con người TCS của Ban Văn Hoá Tư Tưởng-Trung Ương Cục Miền Nam do Ông Trần Bạch Đằng phụ trách. Chính nhạc sĩ Trần Long Ẩn đã kể lại rằng đã có một cuộc họp kiểm điểm TCS trong Cứ trước 1975 với thành phần tham dự gồm có hầu hết các văn nghệ sĩ thoát ly theo MTGPMN như: Tôn Thất Lập, Trần Long Ẩn,… dưới sự chủ trì của ông Trần Bạch Đằng.

Và Cuộc Chạy Trốn Khỏi Sài Gòn

Sự sợ hãi càng tăng cao khi TCS nhận được tin mình sẽ bị thanh toán. Chỉ vài ngày sau, TCS đã âm thầm cùng mẹ rời khỏi Sài Gòn bằng xe đò, trực chỉ ra Huế, nơi anh cũng đang có những ”người anh em” thân thiết cũ vừa chiến thắng trở về như Hoàng Phủ Ngọc Tường, Nguyễn Đắc Xuân, Thái Ngọc San,… hy vọng chắc được yên thân.

Trở lại sống trong căn hộ cũ 11 Nguyễn Trường Tộ - Huế, TCS quây quần với bạn bè cũ và mới không được bao lâu thì cả thành phố Huế lên cơn sốt đả đảo TCS và Phạm Duy. Các biểu ngữ được giăng ở các trường đại học và TCS phải lên Đài truyền hình Huế đọc bài tự kiểm điểm. Sự cố lần này cũng lại do một nhạc sĩ tổ chức, nhạc sĩ Trần Hoàn, Giám đốc Sở VH&TT tỉnh Bình Trị Thiên. Thế là TCS đã tránh được vỏ dưa SG nay lại găp vỏ dừa Huế! Sự bé cái lầm lần này, có lẽ do TCS đã kỳ vọng ở bạn mình quá nhiều nhưng thực tế vai trò trong lực lượng tiếp quản Huế của Hoàng Phủ Ngọc Tường và Nguyễn Đắc Xuân rất khiêm tốn, chính họ cũng đang phải cố gắng phấn đấu để được kết nạp vào đảng thì làm sao bao che cho tác giả của 2 ca khúc từng bị người CSVN kết án (Ca khúc Gia Tài Của Mẹ với câu: “Hai mươi năm nội chiến từng ngày” đã xúc phạm đến đại cuộc chống Mỹ cứu nước của người CSVN và ca khúc Cho Một Người Nằm Xuống để thương tiếc Lưu Kim Cương - đại tá không lực VNCH chết bởi đạn của quân GPMN - người bạn một thời đã từng dùng máy bay không quân đưa TCS lên Đà Lạt thăm Khánh Ly hoặc ngược lại, đón Khánh Ly về hát với TCS) tại Sài Gòn?

Lần này ở Huế, tính tẩy chay TCS nghiêm trọng và công khai hơn hẳn vụ ở Đài Phát Thanh SG vừa qua. Tình bạn cũ trong trái tim TCS sụp đổ đã đành mà giấc mơ “Khi đất nước tôi thanh bình/Tôi sẽ đi thăm…” tưởng dễ thực hiện của anh cũng bị dập tắt. Những tháng ngày tiếp theo ở Huế, TCS sống như một con tin trong Hội Văn Nghệ Bình Trị Thiên, thường xuyên được tổ chức bố trí đi lao động thực tế trên những cánh đồng vào mùa khô cũng như mùa lụt, không hơn gì một người phải chịu cải tạo.

Cuộc Chạy Trốn Lần Thứ 2

Tuy nhiên, đang kẹt trong cái thế “tiến thoái lưỡng nan” này ở tại chính quê nhà, nơi mình từng tham gia hoạt động đấu tranh chống Diệm rồi chống Mỹ-Thiệu trong Phong Trào Đô Thị Huế với Hoàng Phủ Ngọc Tường, Ng K, Nguyễn Đắc Xuân,… cũng không xong mà về lại Sài Gòn thì càng nguy hiểm thì một vị cứu tinh kịp xuất hiện, ông Võ Văn Kiệt - nhà lãnh đạo công sản cao cấp tiếp quản Sài Gòn lúc bấy giờ. Một cuộc vượt biên nội địa đưa TCS vào lại Sài Gòn sau khoảng 1 năm anh phải “đi thực tế” tại các vùng quê tỉnh Bình Trị Thiên được bí mật tổ chức do ông Kiệt uỷ thác cho nhà văn cộng sản Nguyễn Quang Sáng thực hiện thành công. Từ đây, dưới sự ưu ái của ông Kiệt và nhà văn Nguyễn Quang Sáng được uỷ nhiệm của thượng cấp chăm sóc TCS, cái hạn bị hăm doạ hay trù dập với người nhạc sĩ lãng mạn cách mạng này đã kết thúc.
Qua những “sự cố” như thế, có thể thấy TCS đã mắc những sai lầm với người CS như sau:

- Thiếu minh bạch trong suy nghĩ về chiến tranh VN và tính hai mặt trong quan hệ xã hội.
- Không ở trong một đường dây của tổ chức và chịu sự lãnh đạo của tổ chức đó.
- Không dám thoát ly đi theo MTGPMN.

Và những sai lầm của TCS với phía VNCH:

- Kêu gọi phản chiến nhưng chỉ nhằm vào phía VNCH.
- Thiên về phía người CSVN ngay cả sau khi bị họ giết hụt trong vụ Tết Mậu Thân ở Huế.
- Chống lại phía đã tạo cho mình điều kiện học hành và tự do sáng tác, kể cả tự do tư tưởng dù có bị chế độ SG hạn chế và kiểm duyệt, nhưng không quyết liệt tiêu diệt như đã được thổi phồng (dùng giấy của Hoàng Đức Nhã cấp để đi đường do Phùng Thị Hạnh trung gian, nhiều sĩ quan VNCH che dấu,…) để có một nhạc sĩ Trịnh Công Sơn tồn tại lừng lẫy như thế cho đến ngày 30-4-75. Dù ý thức chính trị ra sao, Trịnh Công Sơn vẫn là sản phẩm của chế độ VNCH đúng như Đặng Tiến đã nhận định trong một bài viết ở đâu đó mà tôi không còn nhớ tên.

Bước Ngoặt “Mỗi Ngày Tôi Chọn Một Niềm Vui”

Sa Lầy vào Rượu và Xu Nịnh

Cuối tháng 5-1978, tôi ra khỏi trại cải tạo, gặp lại TCS. Lần nào đến nhà anh ở 47c Phạm Ngọc Thạch-Sài Gòn, sáng hay chiều, cũng thấy TCS ngồi nhậu rượu Ararat, một loại cô-nhắc Nga (sau “đổi mới” chuyển qua rượu chát đỏ của Pháp, và sau cùng là Whisky Chivas) với Nguyễn Quang Sáng và một số bạn “mới”. Tôi cảm thấy có một điều gì đó không ổn, hình như tôi, một thằng sĩ quan Nguỵ đi tù về, không còn được TCS và gia đình coi là người thân như ngày xưa. Thái độ khó chịu của tôi mỗi lần ngồi trước mặt những người bạn “mới” này của Sơn đã khiến tôi bị TCS và gia đình tẩy chay ngầm.

Thực ra, tôi đã bị TCS và nhóm bạn Huế cũ loại ra từ những năm tháng tôi đi lính VNCH mà tôi không hề biết. Sau này, hoạ sĩ Tôn Thất Văn (đã chết) đã kể lại cho tôi rằng có những cuộc họp ở Huế vào những năm 60-70, TCS và những người mà tôi đã coi là bạn thân tình đã đem tôi ra để phê phán, tẩy chay vì tôi đã không trốn lính và đứng về phía Quốc Gia. Rất tiếc, trong số này lại có cả Đinh Cường, người đã từng học cùng trường mỹ thuật, ở cùng nhà, và do tôi giới thiệu làm quen với TCS, do tôi kết nối với anh bạn Thọ giàu có ở Đà Lạt để có những tháng ngày cùng TCS rong chơi thơ mộng khi lưu lại căn phòng anh Thọ đã thuê cho tôi tại biệt thự số 9 đường Hoa Hồng hay ở trong căn nhà sàn gỗ thơ mộng bên một dòng suối róc rách trong một hóc núi của thị trấn Đơn Dương từ trước khi tôi rời Đà Lạt về Sài Gòn năm 1964 theo giấy gọi vào quân trường sĩ quan trừ bị Thủ Đức khoá 19. Và cả những tháng ngày nhàn nhã làm sinh viên sĩ quan tại đây vào năm 66 hay 67, lúc này tôi là sĩ quan huấn luyện CTCT và phụ trách một phần nguyệt san “Bộ Binh”. Sau ngày 30-4-75, với cấp bậc Trung uý ngành Công binh VNCH, Đinh Cường trở lại Trường Mỹ Thuật Huế và được miễn đi học tập cải tạo nhờ vào việc đã tham gia các hoạt động đấu tranh chống VNCH của nhóm Hoàng Phủ Ngọc Tường, Ngô Kha, Nguyễn Đắc Xuân, TCS,.., nhiều năm trước.

Có một kỷ niệm đặc biệt với Đinh Cường mà tôi cũng muốn nói ra luôn sau bao nhiêu năm cố giữ chặt trong lòng, để lòng mình thôi nặng trĩu và cũng minh chứng cho một tình bạn không hề có thật mà anh ấy đã dành cho tôi, mà tôi đã hằng chục năm cố nghĩ khác đi, cố không tin. Sự việc xảy ra như thế này: Ngày 1-5-75, 8g sáng tôi đến nhà Đinh Cường ở đường Nguyễn Đình Chiểu cũ, gần chợ Tân Định để xem tình hình như thế nào. Như thường lệ tôi vẫn đến đây dễ dàng như người trong nhà nên rất tự nhiên bước lên cầu thang dẫn lên căn gác của bạn mình. Thế nhưng chị TN, vợ Đinh Cường đã chặn tôi lại ở giữa cầu thang và nói Đinh Cường đi khỏi rồi. Tôi không tin và nói lớn là có hẹn trước, lúc đó Đinh Cường mới nói vọng xuống để tôi lên. Khi lên tới nơi thì đã có mặt của Bác sĩ Trương Thìn, Nhạc sĩ Miên Đức Thắng cùng ngồi đó. Tôi gượng gạo ngồi xuống và Đinh Cường nói với 2 vị khách kia như hỏi ý: “Mình cấp cho TC cái giấy chứng nhận thuộc Thành Phần Thứ 3 nhé!”. Lập tức tôi đứng lên và từ chối: “Không, hãy để tôi chịu trách nhiệm với họ, và Thành Phần Thứ 3, Thứ 4 gì họ cũng dẹp sạch thôi!”…

Với TCS, gia đình cùng các “đồng chí” rượu của anh, tôi lúc này là một kẻ xa lạ, một người lạc hướng, môt cái gai khó chịu, một con kỳ đà làm cho cuộc vui hoan lạc của họ không được hoàn hảo, tôi nên biến đi. Nhưng tôi lại là một gã ngoan cố, tự cho mình nhiệm vụ phải ngồi lại để làm Sơn tỉnh táo hơn, để những tiếng nói bớt đi những lời xu nịnh. Ý thức được rượu, phụ nữ và xu nịnh là một loại ma tuý tổng hợp đang nhấn chìm TCS được nguỵ danh dưới khẩu hiệu “Mỗi ngày tôi chọn một niềm vui” nên tôi cố chiụ đựng sự khó chịu của họ và vẫn không tìm cách lấy lại chỗ đứng thân thiết vốn có với TCS thủa còn trai trẻ ở Huế bằng rượu chè, quà cáp đắt tiền và những tán tụng nuông chìu. Tôi vẫn đứng trên đôi chân liêm sỉ và theo đuổi một thứ nghệ thuật tri thức, đó là chỗ mà TCS, trong thâm sâu của tâm hồn anh, không thể loại bỏ tôi cho dù có khác nhau về quan điểm chính trị và cách sống. Đó cũng là điều mà TCS trong những lúc cô đơn nhất đã đến gõ cửa nhà tôi bất kể đêm khuya hay khi bình minh vừa ló dạng để hàn huyên hoặc khoe và hỏi ý kiến tôi về bức tranh mà anh vừa vẽ.

Điều Đáng Tiếc

Trong thời buổi sống như một kẻ bên lề của một Sài Gòn đã bị đổi tên và những người bạn thân một thời hồn nhiên như thế nay cũng đã cúi mình, ngoan ngoãn làm những con rối của chế độ mới, quay lưng lại với thân phận khốn đốn của đồng loại, tự huỷ tri thức, lương tâm, thứ một thời nhờ nó đã làm nên những ca khúc tranh đấu cho thân phận và tự do con người, nay chọn cho mình con đường sa lầy vào rượu, thuốc và phụ nữ, tôi thấy mình thật sự cô độc và bất lực trước sự sụp đổ từng ngày của một người bạn tài hoa nhất mà tôi từng yêu quí. Nhiều khi tôi muốn nói với bạn mình: “Tại sao cậu lại sa đà vào những cuộc chơi phù phiếm? Tại sao cậu không viết những ca khúc cho thân phận VN 2 đang bị một thứ xiềng xích vô hình nhưng vĩnh cửu, vì nó được khoá bởi chính người VN chứ không phải ngoại bang? Hay ít ra thì cậu nên sống yên lặng như một cái bóng, một hòn đá tảng vì cái giấc mơ hoà bình, thống nhất quê hương của cậu dù không phải nguyên nhân chính gây ra sự sụp đổ hoàn toàn nền Cộng Hoà trẻ tuổi MNVN, nhưng về mặt tâm lý cũng đã ít nhiều làm lợi cho phía bên kia, vô tình đồng loã với kẻ đã gây ra cái bi kịch thảm khốc cho hằng triệu người Việt từng ái mộ, tôn thờ cậu nay phải bỏ nước ra đi bằng giá của cái chết không được chôn cất, bằng sự tật nguyền tinh thần, nếu may mắn đến được bờ tự do thì bạn cũng đáng được cảm thông… Vì tôi biết chắc chắn một điều là tất cả những trí thức thiên tả VN như cậu cũng đều không chờ đợi một kết cuộc cho đất nước theo cách như đang diễn ra…”. Nhưng có lẽ trực giác của tôi đã mách bảo rằng điều ấy nằm ngoài khả năng của TCS, cứ để cuộc sống của anh phụ thuộc vào bản năng, đã tiêu vong rồi một TCS mạnh mẽ dấn thân, mạnh mẽ ca hát cho hoà bình đất nước, cho dân tộc ấm no, bình đẳng, tự do và hạnh phúc như ngày nào. Thời cuộc làm ra TCS đấy thôi, anh không phải là người làm ra thời cuộc, nên tôi đã nghẹn họng.

Ảo Tưởng Cuối Cùng

Dần dà rồi TCS cũng tìm lại cho mình một phần phong độ sáng tác nhờ hấp thụ những ngọn lửa nhỏ từ những nhan sắc phụ nữ và sự trân trọng (theo chủ trương) của những nhạc sĩ thuộc Hội Âm Nhạc TP HCM như Xuân Hồng, Hoàng Hiệp, Thanh Tùng, Tôn Thất Lập, Trần Long Ẩn,… và một nhóm nhạc do họ tổ chức có tên “Những Người Bạn” ra đời khoảng thập niên 90, và TCS được coi là đầu đàn. Anh trở thành nhân tố quan trọng nhất trong việc thu hút sự chú ý của công chúng mỗi khi anh có mặt trong các show diễn của nhóm. TCS cũng là một tiếng nói có trọng lượng nhất đối với nhiều tên tuổi hàng đầu của nhạc cách mạng VN như Văn Cao, Trọng Bằng, Hồng Đăng,… trừ ông nhạc sĩ Bộ Trưởng Bộ VH&TT Trần Hoàn (đã nghĩ hưu), người từng mở chiến dịch đả đảo anh một thời ở Huế, là vẫn tiếp tục nhìn TCS như một kẻ xấu.

Dù gì thì thế đứng chính trị của TCS cũng đã được tốt hơn trước rất nhiều, có phải vì thế mà anh đã chủ quan nghĩ mình là người đến lúc nên đứng vào hàng ngũ của đảng?

Sơn đem ý định này nói với tôi, tôi liền can:“Không nên Sơn ơi, cậu đang là một nhân vật âm nhạc lớn, người ta nể trọng vì ảnh hưởng của cậu đối với công chúng rất lớn cũng như quốc tế. Nay cậu trở thành đảng viên mới tò te còn ai coi trọng nữa. Nếu ông Hoàng Hiệp chống lai là may cho cậu lắm đó!”. Tôi đã nói với TCS như thế và TCS im lặng. Tuy nhiên không phải nhờ sự phân tích ấy mà TCS không trở thành đảng viên Đảng CSVN, mà bởi sự ngăn cản của nhạc sĩ Hoàng Hiệp, người giữ vai trò chính trị của Hội Âm Nhạc TP HCM và cũng là cán bộ có trách nhiệm quản lý TCS. Trong một lần bất bình vời Hoàng Hiệp về việc bị kiểm điểm, TCS đã chửi thẳng vào mặt Hoàng Hiệp ngay tại trụ sở Hội Âm Nhạc TP HCM:”Mày là thằng mặt lồn!”.

Đã không những không được vào đảng, TCS còn được cho về hưu để vĩnh viễn kết thúc giấc mơ - ảo tưởng cuối cùng của anh.

Cái Chết - Vinh Quang Đích Thực

Nếu con đường chính trị đối với TCS là một con đường dẫn anh xuống vực thẳm thì cái chết là một kết thúc hoàn hảo. Hay nói một cách khác, nó đã giải cứu và trả lại vinh quang đích thực cho anh - vinh quang dành cho di sản ca khúc TCS.

Không chỉ niềm vinh quang này bừng sáng huy hoàng bởi hàng chục ngàn người yêu âm nhạc của anh ở trong nước tiễn đưa anh đến nơi an nghỉ cuối cùng, mà người Việt trên khắp thế giới cũng nhỏ lệ tiếc thương, nhất là người Việt ở Mỹ, nơi mà Trịnh Công Sơn lúc sinh tiền không dám đặt chân đến dù không ít lời mời. Một lễ tưởng niệm long trọng được tổ chức tại Hội trường báo Người Việt với sự tham dự đông đảo của nhiều giới khác nhau trong cộng đồng ở cả Nam và Bắc California ngay trong đêm 1-4-2001, điều mà trước đó không ai dám nói công khai về tình cảm của mình với TCS ở chỗ đông người tại Mỹ.

Lời Kết

Sau 8 năm Trịnh Công Sơn ra đi, mọi cảm xúc thương tiếc sau cái chết của anh trong mỗi chúng ta cũng đã phần nào chìm lắng, hôm nay, tôi quyết định và chọn lựa thời điểm này để viết về một góc khác, một phương diện khác của Trịnh Công Sơn mà chưa ai viết hoặc viết một cách có hệ thống.

Bài viết này chắc chắn sẽ gây ra sự mất mát tình cảm, sự đổ vỡ các mối quan hệ vốn có của tôi, vì một số những nhân vật được đề cập nay đang còn hiện diện trong cuộc đời. Sự thật bao giờ cũng gây mất lòng, tôi đã tự hỏi mình nhiều lần trong nhiều năm qua: có nên viết nó ra, giải thoát cho nó khỏi ngục tù trong tôi suốt hơn 30 năm qua? Sự quằn quại của nó trong cái nhà tù ký ức cũng làm tôi đau buồn đến không chịu nổi. Giải phóng cho nó là giải phóng cho chính tôi, dù có phải bị trả giá.

Đó là về phần cá nhân tôi, còn đối với TCS, bài viết này tôi muốn bổ sung thêm những điều mà trong các cuộc nói chuyện về TCS ở Mỹ tôi đã không thể nói hết được. Một nửa sự thật cũng chưa phải là sự thật. Tôi tin vào điều tốt đẹp của sự thật. Nó có thể sẽ làm tan đi hình ảnh một TCS được tô vẽ bởi những huyền thoại và ảo ảnh lấp lánh trong lòng ai đó, nhưng sẽ trả lại một TCS thiên tài đích thực của âm nhạc như nó vốn có, để mọi người nếu đến với nhạc Sơn thì sẽ có được cơ may yêu mến trọn vẹn một con người có thực, chứ không phải một thứ tượng đài được nhào nặn, tô vẽ và dựng lên vì một mục đích riêng. Đã đến lúc sự thật đó cần được trả lại cho những người Việt đã, đang và sẽ mãi còn coi nhạc Trịnh là lẽ sống của mình, mang nó theo mình như một thứ tài sản vô giá dù đi đến bất kỳ đâu, dù ở chiến tuyến nào.

Tất nhiên, những lập luận và lời kể trong bài viết này dựa vào những gì tôi đã trải qua, những tư liệu riêng và những tư liệu của những người bạn cũ của TCS mà họ đã công khai phổ biến trên các phương tiện truyền thông, và vì thế chắc chắn còn thiếu sót tất yếu, vì tôi biết còn nhiều sự thật đang được cất dấu bởi những người có quan hệ cận kề với TCS trong từng giai đoạn của lịch sử VN từ 1954 đến hôm trước khi TCS qua đời mà họ vì những lý do nào đó chưa tiện nói ra. Tôi xin cám ơn những ai sẽ đóng góp thêm những gì giúp cho bài viết này được hoàn hảo hơn, kể cả những phản biện.

Sau cùng, mỗi con người Việt Nam đã trải qua và sống sót sau cuộc chiến tranh khốc liệt vừa qua đều giữ trong mình những sự thật riêng, một gốc nhân chứng riêng, xin quí vị hãy trả lại nó cho lịch sử, nếu được như thế thì tấm gương lịch sử VN mới trong sáng được. Cũng vì điều này, cho tôi xin lỗi những gì mà bài viết có làm tổn thương đến một ai đó cũng là vì không còn sự lựa chọn nào khác.

Sài Gòn 29/3/2009
TRỊNH CUNG
———————————————————————————–
Tư liệu tham khảo:
1. Như Những Dòng Sông, Hoàng Tá Thích, Nhà Xuất Bản Văn Nghệ 2007.
2. Trịnh Công Sơn, Cuộc đời, Âm nhạc, Thơ , Hội hoạ & Suy tưởng, Nhà Xuất Bản Văn Hoá Sài Gòn, 2005.
3. Thư TCS gửi Ngô Kha, nguồn: http://www.gio-o.com
4. Sự thực Thư Gửi Ngô Kha, Nguyễn Đắc Xuân, phần phỏng vấn Lê Khắc Cầm, nguồn: http://www.gio-o.com
5. Có nghe ra điều gì, Thủ bút của TCS nói về trách nhiệm của mình với đám đông (Tư liệu của Bác sĩ, nhà văn Thân Trọng Minh - Lữ Kiều).

Thursday, 12 March 2009

Đến cao nguyên người ở đừng về (March 13, 2009)



1. Tháng Ba Tây Nguyên. Sáng tác nhạc của Văn Thắng. Lời thơ của Thân Như Thơ. Nghệ sỹ Nhân dân Tường Vy song ca cùng Nghệ sỹ Trọng Hinh.

2. Tình ca Tây Nguyên- Sáng tác: Hoàng Vân. Nghệ sỹ ưu tú Tiến Thành hát cùng tốp nữ Đoàn ca nhạc Đài Tiếng nói Việt Nam năm 1978.

3. Nghe câu Quan họ trên Cao nguyên. Sáng tác: Vũ Thiết. Nghệ sỹ Quỳnh Liên (Cán bộ Đại học Sư phạm Hà Nội) hát cùng Dàn nhạc Đài Tiếng nói Việt Nam năm 1983.

4. Ngọn lửa Cao nguyên. Sáng tác: Trần Tiến. Ca sỹ Bách Thảo (Đoàn ca múa Hải Đăng- Phú Khánh) hát cùng giọng bè của ca sỹ Thanh Nam (Hải Đăng).

Thursday, 6 November 2008

KIỂU HƯNG- Tài hoa & Lưu lạc (November 07, 2008)



(Có cả trăm bài bác Kiều Hưng và cô Xuân Thanh hát, nhưng 360° không cho post nhạc nữa nên đành chịu thôi)

Tác giả: Hữu Việt- Báo Tiền Phong

Đến với âm nhạc một cách tình cờ nhưng Kiều Hưng nhanh chóng khẳng định được tài hoa của một ca sĩ thực thụ. Nhắc đến Kiều Hưng là người ta nhớ đến những tác phẩm có dấu ấn gần như kinh điển.

img
Ca sĩ Kiều Hưng. Ảnh: HV
Buổi biểu diễn văn nghệ do Hội Việt - Mỹ và Hội cứu trợ trẻ em tàn tật Hà Nội tổ chức tại khách sạn Opera Hilton vào dịp kỷ niệm 10 năm bình thường hóa quan hệ ngoại giao giữa Việt Nam và Hoa Kỳ có số khách quá đông. Nhiều người đến chậm phải đứng ngoài sảnh của khách sạn, một số lục tục ra về.

Bỗng qua khe cửa phòng hòa nhạc vang vút lên: “Khi cất lên tiếng ca gửi về người yêu phương xa...” (Tình ca - Hoàng Việt). Tiếng hát vừa lạ vừa quen, như đã bị lãng quên, mà vẫn hiện hữu... có sức cuốn hút lạ lùng, khiến những người đứng ngoài đổ xô vào trong phòng.

Người nghệ sĩ vóc dáng nhỏ bé, đã luống tuổi, nhưng giọng hát thì gần như không bị thời gian làm hề hấn gì: Đẹp, mượt mà, da diết. Nghe tiếng hát những người thuộc thế hệ chúng tôi, hoặc muộn hơn một chút trở về trước, đều có thể gọi đúng tên ông: Kiều Hưng. Hai năm nữa ông bước sang tuổi cổ lai hy.

Kiều Hưng hát liền một mạch 3 bài. Ông dễ dàng vượt qua những quãng nhạc khó và liên tục nhận được những tràng pháo tay tán thưởng. Không chỉ khán giả Việt có mặt hôm đó thích tiết mục của ông, những vị khách Mỹ đứng gần tôi cũng vỗ tay rầm rầm khi ông hát xong bài “Oh, Susanna !- S. Foster”

Cách đây lâu lắm rồi, nghe đồn Kiều Hưng đi Nga xuất khẩu lao động (?), rồi trốn sang Đức tị nạn? Đất nước thời mở cửa, hội nhập, thanh niên thích nghe nhạc mới, tên tuổi ông dần bị lãng quên.

Nhưng nghe mãi “tóc nâu môi trầm, thấy em ngoài phố đông”, “em đến bên anh, tình yêu dối lừa” v.v... người ta bỗng chợt nhận ra, những bài hát ngày xưa ca từ mới thật hay, thật sâu sắc, còn nhạc thì thật đẹp. Một trong những người thể hiện xuất sắc nhất dòng nhạc cách mạng, kháng chiến và xây dựng xã hội mới ấy chính là Kiều Hưng.

Trước ngày Kiều Hưng lên đường quay lại nước Đức, tôi đã có cuộc trò chuyện kéo dài khoảng 7 tiếng với ông trong một quán giải khát. Nghe ông tâm sự về cuộc đời lạ lùng, đầy biến cố của mình tôi chợt nhận ra một điều. Có những người nghệ sĩ mà tài năng và số phận thật mong manh. Một cơn gió mạnh có thể nâng họ bay vút lên, nhưng cũng có thể hất họ xuống vực. Như một chiếc lá. Những chiếc lá như thế rất cần đến sự cảm thông, rộng lượng, tha thứ nhiều hơn là trách cứ, hắt hủi.

Hôm ấy Kiều Hưng đã kể với tôi rất thật, gần như toàn bộ về cuộc đời ông: “Đáng lẽ anh định dành kể câu chuyện này cho Trần Đăng Khoa. Nhưng Khoa dạo này bận quá...”.

Chúng tôi thoả thuận là, những chi tiết riêng tư có thể làm một số người trong cuộc bị tổn thương, tôi sẽ chưa được phép công bố cho đến khi nào ông đồng ý. Và vì vậy, câu chuyện dưới đây mới chỉ là những mảnh ghép của cuộc đời một ca sĩ - từ cậu bé nông thôn thiệt thòi, yếm thế nhưng giàu nghị lực đến người nghệ sĩ tài hoa và lưu lạc.

“Tôi sinh ở làng Thường Xuyên, nằm bên bờ sông Nhuệ, thuộc huyện Phú Xuyên, tỉnh Hà Đông (nay là Hà Tây). Gia đình tôi, ngày xưa gọi là địa chủ nông thôn. Nhà có khoảng 30 mẫu ruộng, 4 con trâu. Bố tôi mất năm tôi mới 2 tuổi. Nhà hiếm con trai nên ông cụ cứ phải... lấy nhiều vợ, mẹ tôi là người thứ 7. Tuy là gia đình địa chủ nhưng thân phận lẽ mọn nên chẳng khác gì người làm...”.

Kiều Hưng sống một tuổi thơ cô độc, ngơ ngác. Người anh gầy nhỏ, nên thường bị bắt nạt. Mẹ anh suốt ngày lao động vất vả, cơm phải ăn cùng với thợ. Nhà chủ ăn cơm trắng, còn thợ chỉ được ăn cơm vàng. “Tuổi các em chắc không biết “cơm vàng” là cái gì đâu. Nó được nấu bằng gạo hẩm, xay từ thóc mót quanh những cây rơm, nên có màu vàng”.

Kiều Hưng lấy khăn tay lau nước mắt. Thương mẹ quá, nhiều hôm anh lén giấu phần xôi sáng, ủ vào chăn, đợi đến tối mẹ đi làm về lấy ra mời mẹ...

Cha mất sớm, mọi quyền bính trong nhà nằm trong tay người anh cả. Người anh rất nghiêm khắc. Những khi Kiều Hưng mắc lỗi, bị người anh phạt, bắt quỳ trên hai chiếc bát úp ngược. Mẹ anh, cho dù rất xót con cũng không dám xin.

“Anh cả mua rất nhiều đĩa hát. Những hôm uống rượu say anh cả gọi tôi lên nhà trên, bắt bóp chân cho anh nằm nghe nhạc”. Không ngờ, từ đây những bài học âm nhạc đầu tiên, tự nhiên, lặng lẽ bám rễ vào tâm hồn đa cảm của cậu bé Kiều Hưng. “Sở dĩ sau này tôi hát tốt nhiều làn điệu dân ca và những bài hát nước ngoài cũng là nhờ được “luyện âm” từ thuở ấy”.

Tôi hỏi: “Năm nay ông 68 tuổi, vẫn giữ nguyên được giọng hát, có bí quyết gì không?”

“Trời cho là chính. Thêm nữa, tôi không bao giờ hút thuốc lá”.

Kiều Hưng thú thật, hồi nhỏ do sức yếu nên học văn hoá rất xoàng. Đến tuổi thiếu niên, gia đình đưa anh ra Hà Nội. Anh từng học nghề may trong nhà mấy ông chú ở phố Hàng Đào. “Suýt nữa tôi trở thành thợ may rồi! Đến bây giờ tôi vẫn còn nhớ cách thùa khuyết”.

Thế nhưng hình như tiếng gọi của số phận đã nhắc đến tên anh. Nghe tin nhạc viện tuyển sinh cho khoá thanh nhạc đầu tiên của nước Việt Nam dân chủ cộng hoà, anh đến đăng ký. “Tôi nhớ cùng thi với mình có anh Trung Kiên. Hồi ấy tôi hát đã bắt đầu hay rồi...” - “Hôm ấy ông hát bài gì?”. Kiều Hưng hát luôn: “Bạn ơi đi với tôi lên đỉnh núi khi trời chiều... bài Leninski Gory - Đỉnh núi Lê nin, do một chị đi Nga về dạy lại”.

Hát xong, giám khảo là một ông thầy người Trung Quốc gật gù, khen ngợi. Thế nhưng khi công bố kết quả thì Kiều Hưng lại trượt! “Tôi bao giờ cũng cố gắng nói thật. Sự thật mới hay, giả dối chẳng có nghĩa gì. Lí lịch của mình tôi thành thật khai là con địa chủ, nhưng thuộc thành phần bị áp bức; năm 54 tôi có vào Nam với người chị mấy tháng rồi quay ra Bắc v.v... tóm lại có gì tôi khai tất tật.

Nhưng lúc ấy cũng chưa biết lí do vì sao mình lại trượt! Chỉ thấy buồn. Tôi còn biết ngâm thơ, giọng đọc cũng khá nên sau khi không đỗ vào nhạc viện, tôi xin đi làm thuyết minh phim, nhưng viết hàng trăm lá đơn, chẳng đâu nhận...”.

Để có tiền học thêm văn hoá, Kiều Hưng phải dậy từ 3, 4 giờ sáng, đi bỏ mối báo, tối lại dạy kèm thêm trẻ em trong phố. Khi học sắp xong phổ thông thì Đoàn ca múa nhạc Trung ương tuyển người. May mắn thay, lần này Kiều Hưng được nhận vào làm hợp xướng viên. Nhưng những lúc rỗi anh được giao thêm nhiệm vụ giúp chị Tình - thủ kho, đánh giầy, là quần áo cho các diễn viên khác.

“Bao giờ thì ông được hát đơn ca?”

“Chính thức thì trong phim Vợ chồng A Phủ. Nhạc sĩ Nguyễn Văn Thương khi đó là trưởng đoàn của chúng tôi được mời viết nhạc cho bộ phim này. Anh Vũ Chất là trưởng tốp hát nam được phân công hát. Anh đóng cửa tập: “Ơ... đầu trời có sao chiều, sao sớm, đầu núi kia có ở hai người yêu nhau...”.

Tôi thuộc giai điệu, thỉnh thoảng lẩm nhẩm hát theo. Có người nghe thấy, mách với ông Thương. Ông Thương gọi tôi lên, bảo hát thử. Nghe xong, ông nói, được, Kiều Hưng hát luôn nhé. Hôm phim chiếu ra mắt ở rạp Tháng Tám, lần đầu tiên tôi nghe thu thanh chính tiếng hát của mình, cảm động đến trào nước mắt.

Ông La Thăng, đội trưởng đội ca ngồi cạnh tôi khen: “Thằng nào hát hay quá!”. Tôi thưa: “Em hát đấy ạ!”. Ông Thăng nhìn tôi có vẻ ngạc nhiên. Tôi ngồi cắt tóc, lại nghe người thợ cạo nói một câu tương tự: “Thằng đ. nào hát trong phim Vợ chồng A phủ hay quá!”. Được quần chúng khen, trong lòng thấy thích lắm, nhưng tôi không dám khoe nữa. Bài hát này được phát trên đài, thính giả khắp nơi gửi thư về động viên, khuyến khích. Từ đó đoàn mới chính thức công nhận tôi hát được đơn ca”.

Vào những dịp 20/7 hàng năm là Ngày đấu tranh thống nhất và Quốc khánh 2/9, Kiều Hưng thường được biệt phái vào Đoàn ca múa miền Nam, đi biểu diễn ở vùng giới tuyến, Bến Hải, Cửa Tùng.

img
Kiều Hưng đăng ký tác phẩm tại trung tâm bản quyền tác giả âm nhạc (7/2005). Ảnh: H.V
Bên kia bờ sông Bến Hải, địch lắp loa cá sấu của Mỹ. Mỗi khi ta biểu diễn, chúng lại bật lên át hết cả tiếng. Bên mình cũng có một dàn loa Trung Quốc gồm 36 cái, xếp theo hình bông hoa, nhưng không ăn thua so với họ. Những khi không hát được thì ta cho múa ra. Địch lại tổ chức một tốp nữ thanh niên mặc áo dài, xếp hàng, tay dứ quả đấm sang khiêu khích. “Nhưng đồng bào mình ở bên ấy cứ giả vờ giặt chiếu, rửa rau, đứng ngâm chân dưới sông để nghe ca nhạc miền Bắc. Chúng tôi lại hát càng hăng...”.

“Chuyến đi Nam nào ông nhớ nhất?”

“Năm 1966 Bộ Văn hoá tổ chức một đoàn ca múa nhạc gồm các nghệ sĩ hàng đầu đi vào tuyến lửa Vĩnh Linh, Quảng Bình, Đường 9 Nam Lào. Ca có anh Quốc Hương, múa có chị Phùng Thị Nhạn, các anh Mạnh Hùng, Đinh Thìn... Nhạc sĩ Nguyễn Đình Phúc (tác giả các bài hát nổi tiếng Cô lái đò, Tiếng đàn bầu...) làm trưởng đoàn.

Chuyến đi này khá gian khổ. Có hôm gặp máy bay oanh tạc, bom nổ hất cả tôi và chị Phùng Thị Nhạn xuống rệ đường. Có hôm chúng tôi cùng tham gia tiếp đạn cho bộ đội phòng không đánh giặc. Buổi tối thắp đèn dầu hát, khi máy bay nó đến, phải lấy dù chùm lên che bớt ánh sáng để hát tiếp. Xuống tận giao thông hào hát phục vụ thương binh... vừa hát chúng tôi vừa khóc.

Nhạc sĩ Trần Hữu Pháp tình cờ nhặt được mẩu báo có in bài thơ “Em bé Bảo Ninh”, anh đem phổ nhạc. Tôi tập, hát luôn: “Em bé Bảo Ninh, bên bờ Nhật Lệ...”. Với bài hát còn nóng hôi hổi đó, tôi hát tại các trận địa phục vụ bộ đội và bà con, ở đâu cũng được hoan nghênh nhiệt liệt. Nhờ chuyến đi này mà anh chị em nghệ sĩ mới thâu lượm được thêm nhiều điều có ý nghĩa về cuộc chiến tranh giải phóng và bảo vệ Tổ quốc của quân dân ta”.

Trên đường ra Bắc, có một câu chuyện mà Kiều Hưng nhớ mãi. Đến bến phà sông Gianh đang vào giờ cao điểm, nhưng xa nhà đã lâu ngày, anh chị em nghệ sĩ liều, rủ nhau tranh thủ sang sông. Ông Nguyễn Đình Phúc giang tay ngăn lại: “Các em phải chấp hành nguyên tắc. Các em là vốn quý của đất nước, không được chủ quan. Nhân danh trưởng đoàn và người chỉ huy cao nhất ở đây, tôi ra lệnh cho tất cả ở lại!”.

Trong suốt thời gian đi vào tuyến lửa, ông Nguyễn Đình Phúc là người nhẹ nhàng, tâm lý, thương yêu mọi người nên rất được anh chị em nghệ sĩ kính trọng. Đây cũng là lần đầu tiên ông dùng mệnh lệnh. Thế nhưng lúc ấy trời yên tĩnh, nên mọi người không nghe, cứ ùa lên phà. Ông Phúc giận, quay lại ngồi bên này sông một mình, chờ đến chiều, hết giờ cao điểm mới sang. Thế là những người đã qua được sông rồi vẫn phải ngồi chờ. Chờ mà ân hận và thương người thủ trưởng hết lòng vì các nghệ sĩ mà ông gọi là “vốn quý của đất nước” !

Một thời gian sau, Bộ Văn hoá tổ chức đoàn văn công đi biểu diễn ở 12 nước XHCN. Kiều Hưng nhỏ con, lại còn trẻ, nhưng nhờ có thành tích trong chuyến đi nói trên nên cũng được xếp vào đoàn làm hợp xướng viên. Sát ngày lên đường thì ông Giáp, phó đoàn thông báo tin gấp: Bộ Văn hoá có công văn cử chị Tường Vi và chị Khánh Vân đi học ở Liên Xô. Thế nhưng các chị muốn tham gia biểu diễn hơn, nên từ chối. Nay nếu ai có nguyện vọng du học thì sẽ được đi thế vào suất này.

“Nghe được đi học, tôi mừng quá, nhận ngay. Thế nhưng khi ấy lại có đơn kiện, Kiều Hưng hát hay, có thành tích, nhưng người nhỏ yếu, không biết có đủ sức khoẻ không? Kiều Hưng chỉ hát dân ca, nay lại đi học opera có phí không? v.v... Đúng là con người ta có số vất vả thật. Nhưng vì không còn người đi học, và tôi cũng hứa sẽ tích cực rèn luyện sức khoẻ nên cuối cùng đã được chấp nhận !”.

Kiều Hưng được phân về học ở Nhạc viện Kiev. Có lẽ đây là thời kỳ ông cảm thấy được bình yên nhất. Đất nước Liên Xô ngày ấy với ông, chẳng khác gì trong những cuốn tiểu thuyết ông được đọc và như trong bài hát của nhạc sĩ Nguyễn Văn Tí: “Nhân dân Liên xô vui hát trên đồng hoa...”.

Ông lại được học cùng với nghệ sĩ Trung Kiên. “Hai anh em ở cùng phòng, học cùng thầy. Chúng tôi rất quý mến nhau. Anh Trung Kiên là người có chất giọng đặc biệt, bẩm sinh đã là teno cao, khi hát thường cao hơn nửa tông hoặc một tông so với người bình thường thì mới đạt tới độ trong sáng và hay nhất. Anh cũng là người thông minh, học nhanh, hát romance của Traicôpxki là những bài khó mà anh vẫn đạt kết quả rất tốt”.

Sau này khi Kiều Hưng đã ở CHLB Đức, ca sĩ Trung Kiên khi ấy là thứ trưởng Bộ Văn hoá dẫn một đoàn VN đi biểu diễn ở mấy nước châu Âu, hai ông đã gặp lại nhau. Tuy khoảng cách, địa vị không còn như xưa nhưng theo Kiều Hưng kể lại thì họ vẫn cư xử với nhau khá thân mật.

Thứ trưởng Trung Kiên mời Kiều Hưng ở lại nghỉ cùng phòng để trò chuyện, nhưng Kiều Hưng từ chối vì bận việc. Ông Kiên còn tỏ ý sẵn sàng đứng ra bảo lãnh nếu Kiều Hưng có ý định trở về VN. Thật không may là lúc ấy Kiều Hưng mới nhận lời tham gia một show biểu diễn ở bên Mỹ nên đã để lỡ đi một dịp có thể hồi hương.

Ở Kiev bấy giờ họ có một cộng đồng âm nhạc khá mạnh. Nam có Trọng Khanh, Trung Kiên, Kiều Hưng... nữ có Thanh Trì, Mai Khanh... sau đó có thêm nhạc sĩ Nguyễn Đức Toàn, nghệ sĩ Trần Thu Hà (Giám đốc nhạc viện Hà Nội bây giờ) sang.

Thường khi thi tốt nghiệp, SV Việt phải hát ghép với một SV Nga. Riêng Kiều Hưng, là người đầu tiên được hát một mình cả một chương trình. Ông đóng hai vai: giáo viên vũ đạo Priker và nhà thơ Lenski trong vở opera nổi tiếng Evghenhi Onhegin. Giọng hát của ông được thu làm tài liệu giảng dạy của nhà trường.

img
Kiều Hưng (thứ 2 từ trái sang) tại Festival quốc tế âm nhạc và múa dân gian (Mátxcơva)
Năm 1972, Kiều Hưng tốt nghiệp. Lúc chia tay, bà giáo người Nga cứ ôm lấy ông khóc và nói: Ôi, những học sinh yêu quý cuối cùng của tôi! Hình như bà linh cảm được tuổi già, chiến tranh và cách trở khiến mình không bao giờ còn gặp lại các học trò Việt Nam này nữa. Tất cả đều chảy nước mắt.

Thật ra gần 20 năm sau, năm 1991, Kiều Hưng sang Nga, có về thăm lại trường xưa và tìm gặp cô giáo cũ xin học tiếp. Nhưng bà giáo đã quá già, không thể dạy ông được nữa. Tuy nhiên bà vẫn nhiệt tình viết thư giới thiệu để ông được vào làm thực tập sinh ở trường Đại học Văn hoá Mátxcơva. Tôi để ý thấy, khi nhắc đến cô giáo mình, Kiều Hưng mấy lần lấy khăn tay ra chấm nước mắt. Đây cũng là cử chỉ ông thường làm khi kể về mẹ.

Về nước, Kiều Hưng tiếp tục cống hiến cho ca nhạc cách mạng. Giọng của anh đã đạt tới độ chín. Những bài hát do anh thể hiện như: Hồ Chí Minh đẹp nhất tên Người, Tiếng hát Thành phố mang tên Người, Tiếng đàn bầu, Rặng trâm bầu, Thành phố hoa phượng đỏ, Tình ca, Người đi xây hồ Kẻ Gỗ, Trước ngày hội bắn, điệu Giã bạn v.v... đã để lại những dấu ấn gần như kinh điển

Đặc biệt bài Hồ Chí Minh đẹp nhất tên Người Kiều Hưng hát sau nhiều ca sĩ khác nhưng anh đã có những thành công đặc biệt. Khi anh cất lên tiếng hò, được sự trợ giúp của dàn tốp ca nữ và tài phối âm, phối khí của nhạc sĩ Cao Việt Bách, không gian như trải rộng thêm, mênh mang và có độ vang vọng mới.

Bài hát này đã được thu thanh và gửi đi phát trên đài phát thanh của tất cả các nước XHCN. Một bài hát khác là Tình ca, Kiều Hưng cũng hát sau nhiều người, thế nhưng cùng với giọng hát của anh, Tình ca đã được chọn vào tuyển những bài hát hay nhất (mỗi nước chỉ được chọn một bài) của các quốc gia thuộc khối không liên kết.

Quãng năm 1987 - 1988, Bộ Văn hoá có chủ trương “Thanh xuân hoá đội ngũ nghệ sĩ”. “Đến bây giờ tôi vẫn còn nhớ đó là thông tri số 22 của Công đoàn Bộ Văn hoá - Kiều Hưng ngậm ngùi - theo đó, các nghệ sĩ có 50 năm tuổi đời và 30 năm tuổi nghề sẽ phải nghỉ hưu.

Đọc xong công văn, chúng tôi thấy buồn và tiếc vô cùng. Mình đang còn sung sức mà đã phải về ư? Anh thử tưởng tượng cuối những năm 80 của thế kỷ trước, người về hưu nếu không có nghề phụ thì biết sống bằng gì. Mà chúng tôi lại chỉ biết mỗi một việc là hát”.

Thoạt tiên người ta cũng chưa đụng đến các soloist xịn. Những anh chị em hợp xướng viên thuộc diện phải về trước đấu tranh dữ quá: Tại sao Kiều Hưng, Bích Liên, Đinh Thìn... vẫn được ở lại? Chẳng qua là phân công nhiệm vụ, chứ hợp xướng viên và đơn ca thì có khác gì nhau? Nếu đơn ca không phải về thì chúng tôi cũng không về! v.v...

Thế là cả soloist lẫn hợp xướng viên cùng phải về cả!

Ở tuổi 50, Kiều Hưng lại bắt đầu một hành trình đi xin việc. Hành trình này xem ra còn có vẻ gian truân, vất vả hơn khi ông mới bước vào đời.

Thoạt tiên ông tìm tới Đài phát thanh vì giọng ông thu thanh rất hợp. Ông Phan Phúc, bấy giờ là người phụ trách, nghe Kiều Hưng hát xong, nắm lấy tay ông: “Hát hay quá! Kiều Hưng hát cho đài là hợp nhất. Thế nhưng ở đài có anh Trần Khánh, đến khi gần về hưu rồi mà vẫn chưa được vào biên chế, vì ngày xưa đi kháng chiến, song không biết vì sao có thời gian lại quay về thành... Thêm nữa quy định 50 năm tuổi đời và 30 năm tuổi nghề với cơ quan Đài cũng không có ngoại lệ. Không thuận nó ở chỗ ấy nữa...”.

(Còn nữa)

PHẦN 2

Không chỉ bươn trải trong Nam, ngoài Bắc, nghệ sĩ tài hoa Kiều Hưng còn sống những ngày tháng lận đận long đong ở nước ngoài. Trong đó sang nước Nga là bước ngoặt lớn đầu tiên.

img
Nghệ sĩ Kiều Hưng
Hồi Kiều Hưng còn công tác tại Nhà hát Ca múa nhạc nhân dân TW, ông được mời dạy thêm hệ tại chức khoa Thanh nhạc, Nhạc viện Hà Nội. Nghệ sĩ Mai Khanh là trưởng khoa.

Học sinh tại chức giọng hát khá hạn chế, nhưng nhờ thầy nhiệt tình, trò cố gắng nên trong số đó có các ca sĩ như Mạnh Hưng, Tiến Hỷ... sau này đã giành được danh hiệu NSƯT. Như vậy, dù phải về hưu, nhưng chí ít ông cũng còn hy vọng có việc làm ổn định, phù hợp với chuyên môn.

Nhưng trước đây có lần đến nhạc viện, Kiều Hưng nhận được lá thư nặc danh, nội dung đại khái như sau: “Anh Kiều Hưng thân mến. Vừa rồi khoa Thanh nhạc họp, có ý kiến nói anh là soloist của nhà hát, đã được đi biểu diễn nhiều, nay còn được dạy thêm ở nhạc viện. Bây giờ thầy nhiều, trò ít, người ta định cho anh nghỉ. Vì lòng quý mến đối với anh, xin thông tin lại để anh biết...”.

Kiều Hưng mỉm cười: “Có thể người viết thực lòng quý mình, cũng có thể họ muốn làm cho mình biết khó mà rút lui... Tôi cầm lá thư lên gặp ông Nguyễn Văn Thương khi ấy vừa là giám đốc nhà hát của tôi, vừa là giám đốc nhạc viện. Lúc ấy trong phòng có cả anh Trung Kiên, người mới thay anh Mai Khanh làm Trưởng khoa Thanh nhạc. Hai người đọc xong, anh Trung Kiên không nói gì. Ông Thương bảo: “Anh để thư này lại cho tôi”. Bẵng đi một thời gian dài, không thấy ai nhắc tới lá thư đó nữa, tôi đành cho qua”.

Kiều Hưng tiếp tục tìm đến Viện Âm nhạc. Anh thấy mình còn có khả năng hát ca trù và ngâm thơ để tự tiến cử với nhạc sĩ Tô Vũ. Ông Vũ bảo Kiều Hưng hát thử. Nghe xong, ông Vũ khen: “Được lắm. Nhưng bên mình cũng làm gì có... biên chế”.

Không thể bó tay ngồi yên, nhóm nghệ sĩ tuy hết tuổi cơ quan nhưng vẫn còn sung sức tuổi nghệ thuật: Mạnh Hùng, Hữu Xuân, Bích Liên, Xuân Nhung, Đinh Thìn, Kiều Hưng... tìm đường Nam tiến, vào miền đất vốn năng động và cởi mở với những thực tài.

Ở Sài Gòn, khi nào kiếm được một show diễn nghiệp dư, nhóm nghệ sĩ miền Bắc lẫy lừng một thuở tập hợp nhau lại. Họ phải ở nhờ nhà tập thể của một công ty đường sắt...

Đang lúc lang thang chưa biết bấu víu vào đâu, Kiều Hưng bất ngờ gặp lại một người bạn học cũ là bà Ca Lê Hồng (bà Hồng là chị em với nhạc sĩ Ca Lê Thuần và nhà thơ, liệt sĩ Ca Lê Hiến - Lê Anh Xuân). Với sự giúp đỡ của bà, Kiều Hưng được làm giảng viên lớp Đại học Thanh nhạc dân tộc của trường Nghệ thuật sân khấu 2. Vì dạy môn này nên Kiều Hưng biết thêm... hò Đồng Tháp!

Thế nhưng khi lớp học kết thúc, không đủ kinh phí mở lớp mới, Kiều Hưng phải chuyển sang dạy thanh nhạc cho một lớp cải lương hệ B. Bấy giờ hệ B mang nặng tính thương mại, tuyển rất đông học sinh. Phần đông các ca sĩ tương lai này chỉ đến trường để trốn nghĩa vụ hoặc đi học... cho vui.

Với một người lao động nghệ thuật chuyên nghiệp như Kiều Hưng thì tình trạng này khiến ông vô cùng chán ngán. Điều an ủi duy nhất là, nhờ dạy ở đây mà ông được phân nhà. Đó là căn buồng tập rộng vỏn vẹn 6m2.

Khi ông đón vợ và 2 con từ miền Bắc vào mới được linh động bổ sung thêm một phòng tập rộng 6m2 nữa, vậy là 12 mét. Nếu ta nhớ lại thời gian cách đây gần 20 năm ở Sài Gòn nhà cửa không quá khan hiếm như ngoài Hà Nội thì gia đình Kiều Hưng 4 người ở một diện tích như vậy quả là quá khiêm tốn.

Năm 1991, chị Việt Bắc (vợ ca sĩ Kiều Hưng) trúng tuyển đi nghiên cứu sinh ở Nga. Một cơ hội mới mở ra với cả gia đình. Đã từ lâu Kiều Hưng muốn đi học tiếp. “Lớn tuổi rồi, nếu không hát được nữa thì học xong mình sẽ về nước đi dạy...” Như vậy ở thời điểm đó, Kiều Hưng đã tính đến bước lùi.

Kiều Hưng tư lự: “Năm ấy tôi cùng các con sang thăm nhà tôi. Nhờ có thư giới thiệu của bà giáo cũ ở Kiev, tôi được nhận vào trường Đại học Văn hóa tổng hợp Matxcơva. Ở đây tôi đã gặp vợ chồng người bạn cũ là anh Tôn Thất Chiêm và chị Xuân Thanh”. Có thể nói cuộc gặp gỡ này là bước ngoặt khiến cuộc đời của Kiều Hưng rẽ sang hướng khác mà ta sẽ nói đến ở sau.

Ngoài giờ học, bộ ba này lập thành một nhóm tham gia các chương trình công - xe (concert) của nhà trường. Liên Xô tan rã, chi phí học tập (không nhỏ) họ đều phải tự trang trải. Bộ ba nhận thêm hợp đồng biểu diễn phục vụ cộng đồng người Việt từ khắp nơi đổ về Matxcơva ngày một đông.

Thời kỳ ấy có thể gọi là thời hoàng kim của những người VN sang Nga buôn bán. Trước đó một, hai năm, mua chiếc máy tính XT ở Việt Nam với giá cắt cổ hơn 1000 USD, mang sang Nga dễ dàng bán với giá cao gấp đôi, gấp rưỡi! Còn nếu bạn đi từ Ba Lan sang Matxcơva, chỉ cần “trông hộ” một giàn máy vi tính, sẽ có người mua tặng bạn vé tàu; đến nơi lại có người đưa đón, và bạn sẽ được nhận thù lao hai vé dễ như bỡn.

Sau này thì ào ào áo gió ra quân, rồi áo thêu, áo phông, quần lót bông hồng, đồng hồ điện tử, son môi, bút chì kẻ mắt... ở nhà giá khá bèo, sang bên ấy lập tức biến thành vàng, thành đôla. “Đôm” 5, “ốp” Vòng bi, Búa liềm, Saliut... trở thành những trung tâm thương mại tấp nập. Các soái (chữ dùng để suy tôn những người giỏi buôn bán hoặc được phỏng đoán có tài sản trên 1 triệu đôla) người Việt liên tục xuất hiện.

Nhưng Kiều Hưng không phải tạng người biết lợi dụng thời thế để làm ăn. Trong không khí nóng bỏng tiền tiền tiền thời bấy giờ, ông chỉ là một kẻ “vô tích sự”.

img
Kiều Hưng, Xuân Thanh đang biểu diễn tại Leipzig 1995
Hồi ấy tôi có nhiều cơ hội qua lại nước Nga, nghe tin đồn Kiều Hưng mới bị trấn lột. Những tên cướp người Việt tống ông lên xe ô tô bịt kín, đưa vào rừng và thất vọng khi nhận ra cái người ăn mặc bảnh bao kia hoá ra chỉ là một anh nghèo kiết với vài chục rúp trong túi.

Thậm chí chúng đã định nện nạn nhân một trận cho bõ tức nếu không có kẻ trong bọn nhận ra ông đây chính là ca sĩ Kiều Hưng! Hôm đó chúng đã làm một việc “tử tế” hiếm hoi là chở Kiều Hưng quay lại metro gần nhất khi ông ấp úng nói mình không biết đường về.

Khi tôi hỏi ông thực hư chuyện này, Kiều Hưng chỉ cười: “Việc ấy thì có, nhưng đã bị thêu dệt thêm ít nhiều”. Ông trầm ngâm: “Hồi còn sống, bà cụ tôi thường bảo: May mà mày còn có giọng hát, chứ không có giọng thì đẻ chẳng biết mày làm được cái gì!” Chị Việt Bắc có một định nghĩa ngắn ngọn về chồng: “Cuộc đời anh, gói gọn lại thì chỉ có 3 chữ “H”, “A”, “T” - hát !”

Lớ ngớ giữa thời buổi kinh tế thị trường sôi sùng sục như thế thì khó mà tồn tại được. Nhưng cái khó chẳng bó được cái khôn. Nhóm ba người nảy ra sáng kiến. Ông Tôn Thất Chiêm vốn là người tháo vát và biết tiếng Pháp khá. Ông tìm thấy thông báo về các cuộc thi công - cua âm nhạc quốc tế vốn chẳng có người Việt nào thèm quan tâm dán khắp nơi ở thủ đô Matxcơva. Nhóm ba người đến ĐSQ nước chủ nhà xin đăng ký dự thi.

“Các cuộc thi đều hạn chế tuổi thí sinh dưới 30. Tôi bấy giờ đã hơn 50, nên phải khai thấp đi hơn hai chục tuổi. Vì người Việt mình có nét mặt trẻ so với người châu Âu, nên họ không biết, cho visa liền. Nhưng đến khi vào thi, có nơi đã phát hiện ra mình quá tuổi. Ở Phần Lan, mới hát xong bài đầu tiên tôi đã bị họ mời xuống. Ở Pháp người ta cũng biết tôi lớn tuổi, nhưng vì tôi hát thành công một bài aria rất khó nên họ để cho được vào vòng trong...”

“Ông có được giải gì không ?”

“Tôi lớn tuổi rồi... chỉ Xuân Thanh được mấy giải be bé”.

Mục đích của việc đi thi là để có visa vào các nước, có giải thì tốt, không có giải cũng chẳng sao. Thi xong, nhóm ba người tranh thủ thời gian còn lại biểu diễn phục vụ cộng đồng người Việt. Tuy không thể làm giàu, nhưng vẫn còn được làm nghề và có tiền tiêu là quý lắm rồi.

“Một lần đi thi chúng tôi bị hải quan cửa khẩu Lvốp giữ lại. Họ hỏi: “Các anh đi đâu, làm gì mà mỗi người chỉ có một cái vali nhỏ thế này?” - Tôi thay mặt đáp: “Chúng tôi là nghệ sĩ đi thi công - cua quốc tế!”. Cả nhóm hải quan phá lên cười ngặt nghẽo: “Qua cửa khẩu này chỉ có người Việt đi buôn thôi. Nghệ sĩ! Ha ha!”.

Họ nghi chúng tôi giấu hàng quốc cấm trong nhạc cụ nên bảo: “Nếu các anh chứng minh được mình là nghệ sĩ thì chúng tôi sẽ cho đi qua”. Cái này đối với chúng tôi không khó. Anh Chiêm đánh đàn, tôi cất tiếng hát một bài dân ca Ucraina quen thuộc. Cả nhóm hải quan đứng vây quanh ngỡ ngàng vỗ tay theo nhịp. Tôi chuyển sang hát tiếp một trích đoạn trong vở opera Evghênhi Ônhêgin. Mấy anh chàng hải quan xua tay: “Thôi, thôi, pass, pass... (cho qua)”.

Tháng 12/1994.

Lần này bộ ba đi thi ở Ý. Nhưng chuyến đi lại không thật như ý. Chẳng những không được giải mà việc tìm show diễn cho cộng đồng người Việt cũng không thành công. Trên đường về Matxcơva, họ có mấy tiếng transit qua thủ đô Berlin.

Trước khi sang Ý, ở sân bay Sheremenchievô xảy ra một chuyện bất bình thường. Khi làm thủ tục tại công an cửa khẩu, vợ chồng ông Tôn Thất Chiêm dễ dàng được cho qua, nhưng đến Kiều Hưng thì hộ chiếu bị giữ lại. Giờ bay sắp đến gần mà vẫn không thấy ai đả động gì. Vợ chồng ông Chiêm ở bên trong sốt ruột vẫy tay rối rít ra hiệu. Cực chẳng đã, Kiều Hưng đành đến gặp mấy anh công an Nga trình bày, kèm theo món tiền lót tay 50 đô.

Họ trả lại hộ chiếu cho ông và cũng không nói lí do vì sao. Đây chính là điểm mấu chốt hơn 10 năm lưu lạc trên nước Đức của Kiều Hưng mà mãi đến khi bị bắt ông mới biết.

Vợ chồng ông Tôn Thất Chiêm chưa về Nga ngay, muốn ghé vào thăm em gái ông Chiêm là nghệ sĩ piano Tôn Nữ Nguyệt Minh đang định cư ở Đức. Hai người sợ Kiều Hưng buồn nên rủ ông đi cùng, tiện thể làm luôn mấy show diễn cho cộng đồng người Việt ở đây.

Mới đầu Kiều Hưng từ chối. Thế nhưng vốn tính cả nể, vả lại thấy vợ chồng ông Chiêm nhiệt tình quá nên ông xiêu lòng. Ông không biết rằng mình đang đột nhập vào nước Đức bằng visa quá cảnh.

Sau một thời gian thăm thú và biểu diễn ở Berlin, không muốn làm phiền gia đình Tôn Nữ Nguyệt Minh, Kiều Hưng đi thăm người quen ở Munich. Ngày thứ Năm, ông định quay lại Berlin để về Nga, thế nhưng mọi người giữ lại nói, để đến thứ Bảy hãy đi vì vào các ngày lễ vé sẽ được giảm giá.

Thứ Bảy mọi người đưa ông ra ga, vẫy tay chào tạm biệt. Còn nửa tiếng nữa mới tới giờ tàu chạy, Kiều Hưng lang thang trên sân ga, ghé vào kiốt xem mấy quyển tạp chí. Bỗng từ đâu xe cảnh sát Đức ập tới. Họ đòi kiểm tra hộ chiếu của Kiều Hưng rồi lạnh lùng tống ông lên xe.

Trên xe đã có mấy người Rumani, Thổ Nhĩ Kỳ, Nam Tư... ngồi sẵn. Tất cả được đưa tới một khu nhà tập thể. Người ta phát chăn gối và cho mỗi người một suất ăn rồi lặng lẽ bỏ đi. Không biết tiếng Đức nên Kiều Hưng chẳng hiểu mô tê ra làm sao, đành phó mặc cho số phận.

Sáng hôm sau, Kiều Hưng được đưa lên phòng thẩm vấn. Nhà chức trách Đức xì xồ một hồi. Nghe phiên dịch xong, Kiều Hưng toát mồ hôi. Hoá ra căn phòng hôm qua ông ở chính là một trại tị nạn! Người ta thông báo cho ông biết ông đã nhập cư bất hợp pháp vào nước Đức, rằng ông đã vi phạm luật pháp của Đức v.v...

Cuối cùng viên chức nọ hỏi nguyện vọng Kiều Hưng muốn gì ? Ông đáp: Trở lại nước Nga. Viên chức nọ cầm quyển hộ chiếu của ông lên và trả lời: Không thể được. Hộ chiếu của ngài đã hết hạn. Mặc dù thái độ của viên chức người Đức khá nhã nhặn, nhưng từng lời anh ta nói, Kiều Hưng nghe như sét đánh ngang tai.

Bấy giờ ông mới hiểu lý do vì sao bị biên phòng Nga giữ lại ở sân bay Sheremenchievô không cho làm thủ tục xuất cảnh. Thì ra khi ấy hộ chiếu của ông chỉ còn thời hiệu là 10 ngày, về nguyên tắc ông sẽ không được rời nước Nga với quyển hộ chiếu như thế.

Anh lính biên phòng đã linh động sau khi nhận tiền lót tay mà không cho khổ chủ biết tai họa đang chờ ở phía trước. Như vậy, khi từ Ý trở về, cho dù Kiều Hưng không dừng lại ở Đức một thời gian thì thực tế anh cũng không thể vào nước Nga được nữa vì hộ chiếu đã hết hạn.

Kiều Hưng lại đề đạt nguyện vọng mới: Ông xin được về Việt Nam. Nhà chức trách trả lời: Nếu đưa ông về được VN thì chúng tôi nhẹ quá. Nhưng ông đến đây từ nước Nga, theo luật pháp của Đức, chúng tôi chỉ trả tiền vé cho ông quay lại Nga, chứ về VN thì chịu. Nhưng về Nga thì hộ chiếu của ông đã hết hạn.

Đi mắc núi, về mắc sông, đúng là họa vô đơn chí. Kiều Hưng bắt đầu thấy núng, không biết phải làm gì. Nhà chức trách chỉ ra một lối thoát duy nhất trong tình thế này: Kiều Hưng phải xin tị nạn ở Đức.

“Lúc ấy tâm trạng tôi rất hoang mang. Nhớ gia đình, bạn bè, người thân, Tổ quốc. Nhưng cho dù tôi không muốn ở lại nước Đức thì cũng chẳng thể đi đâu được nữa. Thôi thì cũng liều nhắm mắt đưa chân, thử xem con tạo xoay vần đến đâu...”.

Nghe Kiều Hưng lẩy Kiều, tôi tự hỏi, có phải câu thơ đã ứng vào hơn 10 năm lưu lạc (và còn chưa biết bao giờ mới kết thúc) của ca sĩ họ Kiều trên đất Đức hay không ?

(Còn nữa)

Tôi nói với Kiều Hưng: “Người nghệ sĩ khi xa quê hương, xứ sở thì sẽ chẳng còn làm được gì nhiều cho nghệ thuật...”. Kiều Hưng im lặng khá lâu.

img
Kiều Hưng
“Có một lần, tôi không nhớ chính xác năm nào, nhà tôi đề nghị với Bộ Văn hoá giúp đỡ tôi trở về VN và được chấp nhận. Sau đó ĐSQ Việt Nam tại Đức cho gọi tôi lên, hỏi: “Nghe anh có nguyện vọng hồi hương, bây giờ anh còn muốn trở về không?”.

Tôi mừng quá, đáp có, có, có! Mọi thủ tục khai báo đã hoàn thành. Chỉ còn việc ĐSQ yêu cầu tôi nộp lại quyển hộ chiếu gốc (đã hết hạn) do VN cấp, nay phía Đức đang giữ.

Tôi khấp khởi đến Sở Ngoại kiều Đức. Hồi đó ai mà xin về thì phía Đức họ ký cả mười tay. Nhưng rủi thay cho tôi đúng thời điểm ấy Chính phủ Đức vừa ký với ta hiệp định đưa 40 nghìn người VN tị nạn về nước.

Người ta giải thích, hiệp định này vẫn còn chưa được cơ quan chức năng Liên bang thảo luận và thông qua nên phải chờ, chưa thể trả hộ chiếu cho tôi được. Chờ mãi, thế rồi quá mất hạn, tôi lại bị lỡ một cơ hội vô cùng đáng tiếc đối với cá nhân tôi. Giá như lúc ấy tôi được linh động cấp giấy thông hành hay hộ chiếu mới thì đã có thể trở về rồi”.

“Hỏi ông một câu thẳng thắn nhé: Tị nạn ở Đức, ông làm gì?”.

“Anh hỏi thẳng, thì tôi cũng xin nói thật: Tôi không vào hội hè, đảng phái, không hát những bài hát chính trị, không phát biểu, tuyên bố gì. Ở trại tị nạn được khoảng 4 - 5 tháng, người ta phân tôi về thành phố Landshut, cách Munich khoảng 70 - 80km.

Tôi làm ở nhà máy bánh kẹo Brand, chuyên sản xuất kẹo sôcôla. Thỉnh thoảng có nơi nào mời thì tôi lại đi hát dân ca. Mình không có tiền, đâu thuê thì hát thôi... Sau có người khuyên tôi nên xin về miền Bắc nước Đức, ở đấy nhà rộng, giá cả sinh hoạt rẻ, công việc cũng nhiều. Tôi nghe theo và đến ở Hannover từ đó đến giờ”.

“Có tin đồn anh từng cộng tác với một số tổ chức Tin lành và nhà chùa ở Đức ?”.

“Chính tôi cũng từng nghe đồn mình đã tham gia biểu tình, cầm cờ nguỵ, xé cờ ta v.v... nữa. Những tin đồn này có thể do người ta hiểu lầm mình, hoặc vu cáo mình, tôi xin bác bỏ tất cả. Bản thân tôi rất mong được gặp các cơ quan hữu trách, được điều tra để làm sáng tỏ mọi sự việc... về tôi”.

“Thực hư việc này thế nào?”.

“Năm ấy có một ca sĩ mà tôi không tiện nêu tên... Nhưng thôi, đã thống nhất từ đầu là nói thật thì thật luôn cũng được. Ca sĩ Ái Thanh đang định cư ở Đức, đến Hannover để quy y tại chùa Viên Giác.

Nhân dịp Tết, cô rủ tôi lên chùa hát dân ca cho phật tử nghe. Ngôi chùa này tôi đã biết từ trước, do một Việt kiều xây, khá lớn. Trong chùa treo cờ Phật nhưng cũng treo cả cờ ba sọc.

Tuy là nhà chùa nhưng bên ngoài bán đồ lưu niệm, hàng hoá VN... lại bán cả trứng vịt lộn và thịt nữa! Năm mới, khách thập phương đến, ông sư trụ trì còn mừng tuổi mỗi người 1 đô... Mình sống yên phận, lại luôn nghĩ đến ngày trở về nên không muốn đi. Nhưng Ái Thanh nói, anh Hưng ơi, ngày Tết có tới hàng nghìn người Việt đến đây, chủ yếu là người miền Bắc, mình hát dân ca cho đồng bào mình nghe, có sao. Nghe nói thế, tôi đồng ý.

Hát xong, sư trụ trì mời chúng tôi ăn cơm chay, nhân đó nhờ tôi tự chọn, hát, thâu một đĩa nhạc cho nhà chùa. Chi phí do ông chịu. Vì tôi đi hát nhiều nên cũng tập tọng sáng tác, nay có người thuê, nội dung đĩa nhạc do mình chủ động, nên tôi nhận lời.

Trong đĩa đó, tôi thu âm những bài như Lời của gió, Cô hái hoa tươi, Nhớ quê (của tôi sáng tác)... Vì là người lưu lạc nên tôi thu thêm bài “Xa quê hương” của Shuman, lời Việt do nhạc sĩ Tô Vũ dịch, đại ý bây giờ mình ở xa quê, khi trở về thì cha mẹ đã khuất núi rồi, không ai còn nhớ ta nữa, nhưng dù thế nào thì ta vẫn yêu quê hương, xứ sở của mình.v.v... lời rất hay và xúc động, như nói hộ lòng mình.

Ngoài ra còn có một bài hát tôi đặt lời theo điệu dân ca “Lên chùa”: Xuân về nở rộ ngàn hoa/Xuân vui mọi nhà, xuân đến khắp nơi/Em có đi hái lộc cùng tôi, lễ Phật cùng tôi/Lên chùa Viên Giác, sáng trưng ánh đèn v.v...

Tóm lại đây là một đĩa hát bách hoá tổng hợp. Tương tự như vậy, khi có một nhà thờ nhờ, tôi cũng đặt lời cho họ trên nền nhạc một bài hát (...) của nhạc sĩ Nguyễn Đức Toàn: "Từ ngày con tin Chúa đến nay/Sức sống con lớn lên từng ngày/Người đã dạy phải sống bình an, chớ có tham lam gây nên tội v.v... Chuyện chỉ có thế thôi, thẩm tra rất dễ vì những cái đĩa ấy vẫn còn”.

“Tôi cũng từng một lần hát dân ca ở Paris by Night, từng sang Mỹ hát chung với ái Vân nhạc cảnh Thằng Bờm của Phạm Duy”. “Người ta sống ở đâu thì cũng có người yêu, kẻ ghét. Tuổi đời vốn ngắn, tuổi nghệ thuật còn ngắn hơn nữa.

img
Kiều Hưng hát “Tình ca” - ảnh Nguyễn Đình Toán

Năm nay đã gần 70, cuối đời vẫn còn một chút khả năng, tôi mong được trở về quê hương để thực hiện 3 nguyện vọng:

1. Hát lại và thu âm một số bài dân ca và ca khúc cách mạng mà mình đã từng thể hiện thành công trước kia

2. Có thời gian thanh thản để tập trung vào sáng tác, ra album cá nhân. (Về nước lần này, Kiều Hưng đã đến Trung tâm bản quyền âm nhạc đăng ký hơn một chục ca khúc mới của mình)

3. Nếu được chấp nhận, tôi muốn đi dạy để truyền lại một số kinh nghiệm và sở học của mình cho lớp trẻ”.

“Ông có yêu cầu cụ thể gì cho mình không?”.

“Là người sắp quá “đát” rồi, tôi cũng không dám yêu cầu gì nhiều. Nếu ở nhà thấy nên, thì giang tay đón tôi về và có sự nhìn nhận thoả đáng với những đóng góp của tôi trong quá khứ”.

“Hiện ông cần những thủ tục gì? Vướng mắc ở đâu?”.

“Thật ra đến giờ tôi vẫn không biết mình cần phải làm gì, ở đâu, với ai? Những người tôi gặp, đều nói việc về của Kiều Hưng rất đơn giản. Thế nhưng đến nay việc đơn giản ấy vẫn dậm chân tại chỗ...

Thôi thì thủ tục gì, cũng xin làm giúp nhanh nhanh lên một chút. Đời người ca sĩ hữu hạn, nếu về mà không còn hát được nữa thì việc trở về cũng chẳng còn ý nghĩa”.

Câu chuyện về cuộc đời lưu lạc của Kiều Hưng qua những mảnh ghép có thể tạm kết thúc ở đây. Trong phần đời lưu lạc của mình, không thể nói Kiều Hưng không có lỗi. Có một chút tự do chủ nghĩa. Có một chút buông thả. Có một chút thiếu cân nhắc, nấn ná, cảm tính trong hành xử.

Sự lơ đãng nghệ sĩ đã khiến ông vướng vào những rắc rối do chính ông tạo ra. Vân vân và vân vân... Chỉ có nguyện vọng xem ra không lấy gì cao xa của ông là vẫn còn tiếp tục.

Tôi hỏi ông Tôn Thất Triêm: “Ông chơi với Kiều Hưng đã mấy chục năm. Ông thấy việc này nên thế nào?” - “Tôi rất tâm đắc với ý của nhạc sĩ Nguyễn Đình Phúc: “Những nghệ sĩ tài năng là vốn quý của đất nước”. Không dễ mà có đâu.

Đặng Thái Sơn thì phải hàng trăm năm mới có. Kiều Hưng, Tôn Nữ Nguyệt Minh... (tôi chỉ nói những người mình biết) thì phải hàng chục, thậm chí vài chục năm mới lại có.

Kiều Hưng nắm rất vững kỹ thuật thanh nhạc của phương Tây và lại có cả một kho tàng dân ca Việt Nam sẵn trong người. Bỏ phí đi thì quá tiếc”.

Ông Triêm nói tiếp: “Tôi kể anh nghe chuyện này. Cách đây mấy chục năm, hồi ấy đa số còn đi xe đạp. Nghe tin có thương binh mới về nằm ở Viện 103, Kiều Hưng, Mạnh Hùng (PV báo Quân đội Nhân dân) và tôi lóc cóc đạp xe vào Hà Đông.

Cả buổi hôm ấy, tôi đệm đàn, Kiều Hưng đi giữa các giường bệnh hát cho thương binh nghe. Tự nguyện hát xong, rồi lặng lẽ trở về. Có anh thương binh tên Phúc (nghe nói sau này hy sinh) mới tập sáng tác, đưa một tệp bài hát nhờ Kiều Hưng xem hộ.

Tưởng nhờ vu vơ, nhận xã giao vậy thôi, thế mà Kiều Hưng đã vẫn tập, hát và thu thanh cho anh Phúc 3, 4 bài. Ấy là người có tâm. Cứ như tôi nghĩ thì nhờ tâm mà Kiều Hưng giữ được giọng hát lâu thế”.

Điểm mạnh và có lẽ cũng là điểm yếu của Kiều Hưng, đó là ông có thể làm tất cả, miễn mình được hát. Nếu được hát, ông sẵn sàng bỏ ngoài tai những lời dị nghị, đàm tiếu, sự phân biệt chiếu trên, chiếu dưới vốn khá nặng nề trong giới nghệ sĩ.

img
Gia đình Kiều Hưng và Tôn Thất Triêm gặp lại nhau tại Hà Nội

Những ngày về thăm quê hương, thứ Bảy hàng tuần, ông đều đặn đến hát ở... Legend Beer trên phố Vũ Ngọc Phan.

“Hát quán bia, ông không sợ bị mất giá ư ?” - “Đấy là một quán bia Đức. Tôi đến hát dân ca Đức và dân ca VN. Có hôm hát xong, khách uống bia thích quá xúm lại, công kênh tôi tung lên giời. Vui.

Phục vụ thính giả thì ở đâu chẳng là phục vụ. Hơn nữa, về nước mình cũng ít có cơ hội được hát”. Tôi trộm nghĩ, một ông lão bảy mươi mà khi nói đến chuyện hát vẫn hồn nhiên như ca sĩ mới vào nghề!

Những đêm diễn cùng trẻ khiếm thị ở KS Melia và Hanoi Opera, tiền thù lao, Kiều Hưng đều nhờ ông Triêm chuyển cho các em học sinh trường mù Nguyễn Đình Chiểu. Việc làm này ông thực hiện một cách lặng lẽ, khi ông trở lại Đức rồi tôi mới nghe kể. Vì vậy không thể nói ông vì danh, lại càng không thể nói vì tiền.

Tôi hỏi Kiều Hưng: “Khi hát song ca, cặp đôi với ai ông thấy hợp nhất?” - “Tôi có may mắn được hát đôi với nhiều ca sĩ giỏi như Thanh Huyền, Thu Hiền, Mai Lan, Thanh Hoa... thời gian sau này là Xuân Thanh. Nhưng ăn ý nhất vẫn là người bạn Thu Hiền của tôi”.

“Bài đơn ca nào ông cho là mình hát thành công nhất?” - “Tham tiền thì có nhiều người tham, tôi không dám tranh. Nhưng riêng hát thì tôi tham lắm. Nếu phải gọi ra một bài đỉnh cao thì tôi chưa biết là bài nào?”.

“Ông có nghĩ rằng mình thiếu khiêm tốn?” - Tôi hỏi đùa. Kiều Hưng cũng cười : “Không. Vì anh hỏi thực, nên tôi cũng nói thực” - “Thôi được, ông có nghe lớp ca sĩ trẻ hát dòng nhạc dân ca hiện nay không? Ông thấy bộ ba Đăng Dương, Việt Hoàn, Trọng Tấn thế nào ?”.

“Nhớ hôm khai mạc SEA Games 22, dù chỉ được xem lại qua băng video nhưng tôi rất thích nghe Trọng Tấn hát bài Việt Nam, quê hương tôi của nhạc sĩ Đỗ Nhuận. Các em bây giờ đã đủ lông, đủ cánh. Kỹ thuật cũng không đến nỗi xoàng. Tôi chỉ muốn nói thêm với các em rằng, học một bài hát, ngoài giai điệu, tình cảm, hồn vía, còn cần phải đặc biệt chú ý phần phát âm tiếng... Việt. Và đừng quên học thêm ở dân ca. Có bột thì mới gột nên hồ được!”.

Có lẽ tôi chỉ là một trong số nhiều người hâm mộ thi thoảng tự hỏi: “Cái ông Kiều Hưng ngày ấy bây giờ ra sao, ở đâu, làm gì mà lại lặn một hơi biệt vô tăm tích như vậy?” Và phải đến gần đây mới được biết về phần đời lưu lạc gian truân, thú vị nhưng cũng thật rắc rối của ông.

Đặt mình vào hoàn cảnh của ông và đất nước cách đây gần 20 năm, chắc chúng ta sẽ phần nào hiểu và thông cảm với những quyết định của ông khi ấy. Trong không khí cởi mở hiện nay, chúng ta đã mở vòng tay với những đứa con lầm lạc thì có lẽ cũng sẽ rộng lượng với những người con lưu lạc.

Tài năng bao giờ cũng hiếm. Tài năng nghệ thuật lại càng mong manh. Chính vì thế mà nó mới quý giá. Tiếc cho một tài năng vẫn còn có lửa, thương cho một số phận tha hương đau đáu ngày về, người viết bài này kể lại cuộc đời của ca sĩ Kiều Hưng là mong những người có trách nhiệm xem xét, tạo điều kiện để ông có thể thoát khỏi nỗi buồn Shuman, trở về nước. Và còn vì cả người hâm mộ sẽ có cơ hội nghe và xem Kiều Hưng diễn, bởi vì giọng hát của ông qua bấy nhiêu năm hầu như vẫn không hề suy suyển.

Tôi nghĩ về một đêm nhạc kinh điển có nhiều thế hệ ca sĩ như Trung Kiên, Kiều Hưng, Thu Hiền, Thanh Hoa,... bên cạnh Đăng Dương, Trọng Tấn, Việt Hoàn, Cẩm Vân, Thái Bảo,... biểu diễn những bài ca lẫy lừng một thuở, có sức lay động hàng triệu con tim của những người thuộc nhiều thế hệ.

Cách đây không lâu, ở bên Đức, xem qua chương trình VTV4, biết tin Bộ Ngoại giao mới trao quyết định hồi hương chính thức cho nhạc sĩ Phạm Duy, Kiều Hưng đã hào hứng “meo” ngay cho tôi: “Anh hy vọng ngày đó với mình cũng sắp đến gần!”.

Và có cả tôi hy vọng.

Sunday, 5 October 2008

Mẫm t... (October 06, 2008)



Buổi chiều jogging ở vườn Lục Xâm Bảo bỗng thấy mùa thua đã nhuốm vàng một góc Ba Lê. Nhưng mùa thu Paris năm nay lạnh quá. Nhiệt độ mấy ngày vừa qua có lúc đã xuống tới 6 độ trong khi các hệ thống sưởi trung tâm ở hầu hết các cư xá đều chưa tới lịch hoạt động trở lại. Trong nhà, ai nấy đều co ro, xuýt xoa, trách sao mùa thu mà lạnh giá. Bên ngoài, lá vàng xao xác rơi giữa những cơn gió lạnh thổi rất mạnh làm cho mùa thu trở nên gấp gáp, vội vàng. Một thứ đoản thu. Một thứ thu chỉ có thể gợi nhớ một khúc hát đẹp nhưng buồn, hát rằng « tình ta vừa chạm thu đã thấy mùa đông sang» (Dương cầm thu không em, An Thuyên, tiếng hát Lê Anh Dũng).

Trở về nhà, chiếc máy tính bật sẵn chương trình VOV3 đang phát sóng chương trình ca nhạc của anh bạn Trang Công Tiến. Tiến đang say sưa đọc lời yêu cầu của một thính giả nữ muốn được nghe Mỹ Tâm hát lại Giấc mơ mùa thu của Võ Thiện Thanh. Câu chuyện viết trong thư yêu cầu của bạn thính giả nọ nghe cảm động đến nao lòng. Tiến đã thật khéo khi chọn đoạn nhạc dạo piano đậm chất ballad trong bài hát mà hình như ta đã gặp trong một khúc nhạc cổ điển nào đó làm nhạc nền cho lời bình của anh, tạo nên một hiệu quả cảm xúc tối đa. Rồi giọng hát Mỹ Tâm cất lên. Oh la la, Mỹ Tâm hát bài này tuyệt vời quá, sang trọng quá. Chỉ riêng đoạn Tâm vuốt giọng hơi thiên về giả thanh « dù biết ngày mai..., người đi, người đi không về » cũng đã đủ để mê hoặc, để ám ảnh. Dù không hiểu biết nhiều về nhạc trẻ của các bạn 8x, 9x, nhưng anh chợt nghĩ, nếu không bị cuốn vào cái phù phiếm của thị trường nhạc trẻ quá huyên náo và láo nháo hiện nay thì Mỹ Tâm chắc còn làm nên nhiều chuyện. Tâm có cả thanh lẫn sắc.

Saturday, 23 August 2008

LAD & Hà Nội tình yêu của tôi (August 24, 2008)



Ha Noi tinh yeu cua toi- An Thuyen - Le Anh Dung

Khi Dũng hát Nhớ đàn xe nước của Văn Đông ở vòng loại khu vực miền Trung ở Sao Mai 2007 người ta sửng sốt khi nhận ra rằng cậu ấy đã vượt qua một cách ngoạn mục một cái bóng quá lớn đã phủ lên bài hát đó suốt 4 thập niên qua, đó là giọng hát của NSND Trần Khánh. Với Người con gái Việt của Nguyễn Lân Tuất, một bài hát khó lại gần như chưa ai biết đến mà Dũng hát ở vòng chung kết toàn quốc ngay sau đó thì đã có quá đủ cơ sở để giới chuyên môn cũng như những khán giả thuộc nhiều gout thẩm mỹ và cách thưởng thức nghệ thuật khác nhau khẳng định được tài năng tuyệt đối của Dũng. Thế nhưng tất cả không dừng lại ở đó, trong đêm chung kết xếp hạng, Dũng đã chinh phục một cách tuyệt đối cả 10 thành viên của Ban giám khảo và có lẽ là toàn bộ khán thính giả theo dõi live show đó bằng Dương cầm thu không em của An Thuyên. Dũng giành một cú đúp với Giải nhất dòng thính phòng và Giải khán giả bình chọn nhiều nhất, một kỷ lục chưa từng có trong các kỳ Sao Mai. Khi Dũng hát Dương cầm thu không em trong đêm đó, người ta bảo đó là giọng hát xuất thần. Mà xuất thần thì hiếm khi lặp lại. Nhưng nhìn lại cả cuộc thi đó thì phải nói cả 3 lần trình diễn của Dũng đều là "xuất thần".

Và rồi bây giờ nghe Dũng hát Hà Nội tình yêu của tôi của An Thuyên chắc chắn ai cũng cho rằng nhất định cậu ấy lại "xuất thần" một lần nữa. Khoan hãy nói về kỹ thuật thanh nhạc điêu luyện mà Dũng phô bày, cảm xúc mà Dũng thổi vào ca khúc này quá nồng nàn, đắm say và tha thiết. Cảm xúc về Hà Nội như thế này xưa nay chỉ thấy ở Hồng Nhung hát Nhớ Hà Nội hay Ngọc Tân hát Em ơi Hà Nội phố. Cảm xúc ấy được nâng bổng bằng bản phối vô cùng nền nã với âm thanh chủ đạo của violon, tiếng guitare tỉa tót nhẹ nhàng lẫn trong dàn âm thanh semi-classic. Và tất cả những cảm xúc và hiệu quả âm thanh đã được "đảm bảo" bằng giọng hát đầy nội lực và điêu luyện về kỹ thuật của Dũng- Quán quân "đúp" của Sao Mai 2007, đồng thời là Thủ khoa của Nhạc viện QG HN. Nghe Dũng thể hiện đoạn legato ở giữa bài phải nói là quá phê! (TMH, 24.8.08)

_________________________________________________________________________

Đọc thêm về Lê Anh Dũng:

“Sao mai” Lê Anh Dũng: Tự mình tỏa sáng

Giành "cú đúp" với hai giải thưởng danh giá tại Sao Mai 2007 (Giải nhất phong cách thính phòng và Ca sỹ được yêu thích nhất do khán giả bình chọn), Lê Anh Dũng trở thành tâm điểm chú ý của công chúng. Cuộc sống sẽ thay đổi với việc từ kẻ vô danh trở thành "sao".

Trò chuyện với VTC về con đường sau này, Dũng cho rằng, một ngôi sao ca nhạc thính phòng không nhất thiết phải là một “hotboy”, mà có cách tỏa sáng riêng.

img

- Nếu bỏ qua sự may mắn thì thành công của anh ở Sao mai có được từ những yếu tố nào?

- Tôi có 7 năm học nhạc Nhạc viện Hà Nội. Thêm nữa, tôi có xu hướng chọn những tác phẩm mới, phù hợp với chất giọng của mình. Tôi muốn thử nghiệm những gì mới mẻ cho dòng nhạc thính phòng, và đã thành công với thử nghiệm của mình.

- Thật ra, cái mới đều được các thí sinh ở các dòng nhạc khác sử dụng và giành chiến thắng. Vậy điểm mới của riêng anh cụ thể như thế nào?

- Mọi người đều nghĩ nhạc thính phòng là phải hùng tráng và phải khoe giọng, cất lên là vang dội. Nhưng thính phòng cũng có những phút trầm lắng, sâu sắc, và những phút cao trào mà không cần thể hiện “ta đây là thính phòng”. Vì vậy, tôi lựa chọn các ca khúc mới mẻ và gần gũi. Cái khó khăn là lột tả các ca khúc ấy như thế nào để tránh đi theo lối mòn của những nghệ sĩ đi trước với những ca khúc đã “đóng đinh” cùng tên tuổi họ.

- Giải năm nay, có vẻ thứ hạng đã an bài ngay từ khi bước vào vòng trong. Bạn hẳn đã không chịu áp lực khi diễn đêm chung kết?

- Ai đi vào vòng cuối cùng cũng ước mơ mình giành được giải quán quân. Tôi không dám chắc chắn 100% là mình sẽ đăng quang trong đêm đó. Tôi chỉ nghĩ mình cần cố gắng hết mình. Hơn nữa, tôi có cảm giác đêm chung kết là một cuộc biểu diễn với bạn bè nghệ sỹ nên không chịu áp lực gì cả.

- Hoàng Tùng nói, Sao mai càng ngày càng nghiệp dư. Bạn nghĩ gì về nhận định này?

- Tôi không thấy thế. Nếu không phải là thí sinh tôi cũng vẫn cho rằng Sao mai ngày càng chuyên nghiệp. Các thí sinh được đào tạo bài bàn, biểu diễn có lửa và rất chu đáo trong chuẩn bị bài và trang phục biểu diễn.

- Cứ nhìn lịch sử giải Sao mai sẽ thấy các ngôi sao thính phòng chỉ chợt lóe sáng trong đêm chung kết rồi lại lui vào hoạt động âm thầm. Anh không sợ rồi mình cũng như thế?

- Tôi nghĩ âm nhạc thính phòng tuy hoạt động rất âm thầm nhưng không thể thiếu trong đời sống âm nhạc. Cứ nhìn cái cách nó sống trong công chúng thì biết. Ra đời sớm so với dòng nhạc trẻ đương đại và bây giờ nó vẫn đứng vững đấy chứ.

Tất nhiên, đã là nghệ sỹ, ai cũng muốn mình được tỏa sáng, nhưng “sao” của thính phòng sẽ tỏa sáng theo cách riêng của mình. Và tôi cũng sẽ làm mới mình trong chính dòng nhạc này thông qua cách chọn ca khúc để biểu diễn, hòa âm phối khí cũng như phong cách biểu diễn; có lẽ sẽ bớt “âm thầm” chăng.

img

Không nghĩ sẽ là hotboy

- Gần đây, người ta nhắc nhiều đến hiện tượng các hotboy trong showbiz. Sau giải này, anh có nghĩ đến chuyện mình trở thành hotboy?

- Tôi không dám chắc.

- Nếu không phải hotboy, vậy hình ảnh anh hướng tới là gì?

- Hiện tại trên thế giới có rất nhiều các ca sĩ trẻ hát các ca khúc thính phòng theo phong cách mới với chất giọng rất đẹp.

Những ca khúc thính phòng cũng không nặng nề, rất mềm mại và nhẹ nhàng, bán cổ điển. Rất nhiều khán giả yêu thích dòng nhạc này, các đĩa làm ra đều bán rất chạy. Tôi sẽ đi theo hướng đó.

- Anh có ý định kết hợp giọng hát với một kiều nữ nào không?

- Tôi chưa nghĩ đến chuyện ấy. Bây giờ, tôi muốn tự tạo nên sự mới mẻ cho chính mình đã. Không phải cứ có sự kết hợp mới tạo nên thành công.

- Ở Sao mai, anh thấy mình có thể kết hợp với ai không?

- Sự kết hợp ngoài tố chất âm nhạc còn cần nhiều thứ khác, như có cùng suy nghĩ, cách làm việc…Hợp nhau theo cách tôi nghĩ phải là sự hợp tác ăn ý của cả hai người, chứ không chỉ là thích giọng hát của nhau.

- Anh định đơn thương độc mã trên con đường nghệ thuật?

- Không hẳn thế. Đây mới chỉ là những bước đi đầu tiên của tôi. Khi khẳng định được mình, biết đâu tôi sẽ có một sự kết hợp nào đó chăng.

- Cảm giác từ một kẻ vô danh trở thành “sao” trong anh như thế nào?

- Tôi vẫn nói đùa với mọi người tôi là người hạnh phúc nhất thế giới sau giải Sao mai này. Liền một lúc, tôi nhận hai giải thưởng lớn. Đây là một bước đệm rất lớn cho sự nghiệp ca hát của tôi.

- Nổi tiếng, sẽ bị soi từ lời ăn tiếng nói, cái ăn cái mặc. Anh có thấy đó là một cái giá phải trả hợp lý?

- Hiện tại, tôi chưa cảm nhận được nhiều về sự gò bó đó. Được khán giả và công chúng chú ý đến là niềm hạnh phúc của nghệ sỹ. Nhưng đôi khi, sự quan tâm quá cũng làm nghệ sỹ mất tự do trong đời sống bình thường. Nghệ sỹ cũng là con người mà.

- Trong các cuộc trò chuyện, anh nói rất nhiều đến quan hệ giữa báo chí và nghệ sỹ. Anh nghĩ gì về vấn đề này?

- Theo tôi, báo chí có vị trí rất quan trọng với đời sống nghệ thuật của một nghệ sỹ. Tuy nhiên, chỉ nên xuất hiện trên báo ở tần suất vừa phải, và với những câu chuyện không quá lố bịch, mang tính chất chiều sâu về nghề nghiệp hơn là những thứ giật gân câu khách.

- Anh đang muốn hướng tới một hình ảnh sạch sẽ, “Mr Perfect”. Anh không sợ sẽ tẻ nhạt và đơn điệu trước công chúng sao?

- Tôi muốn xây dựng một hình ảnh đẹp trước công chúng. Tức là muốn báo chí đề cập nhiều đến công việc và sự nghiệp, tất nhiên vẫn có phần nói về đời sống nghệ sỹ.

- Kế hoạch gần nhất của anh là gì?

- Trước mắt tôi tập trung vào việc học vì năm tới sẽ tốt nghiệp đại học. Sau đó, tôi sẽ cố gắng ra một album.

- Thế còn kế hoạch đi châu Âu lưu diễn?

- Tôi sẽ đi lưu diễn vài tháng ở các nước châu Âu như Đức chẳng hạn…Chương trình này nằm trong khuôn khổ cuộc thi Hoa hậu Thế giới người Việt . Sau đó, tôi sẽ tập trung vào tập vở nhạc kịch Cây sáo thần.

- Xin cảm ơn anh.

Đào Gia Long (thực hiện)

***

Sao Mai Lê Anh Dũng tốt nghiệp thủ khoa Nhạc viện Hà Nội

Sao Mai Lê Anh Dũng vừa tốt nghiệp Nhạc viện Hà Nội với tấm bằng loại giỏi và đã chính thức được giữ lại trường giảng dạy.

Với số điểm tuyệt đối trong lễ bảo vệ tốt nghiệp: 10 điểm cho phần thể hiện 10 bài hát (4 bài hát Việt Nam và 6 bài hát nước ngoài), Dũng là một trong 3 sinh viên có số điểm bảo vệ cao nhất khoa. Với điểm bảo vệ tốt nghiệp này, điểm tổng kết toàn khoá của Dũng đạt trên 8 phẩy.

img Ca sĩ Lê Anh Dũng

Dũng đã chính thức được giữ lại làm giảng viên của trường Nhạc viện Hà Nội. “Chính vì dành thời gian cho lễ bảo vệ tốt nghiệp nên việc ra đĩa của Dũng có chậm hơn một chút. Giữa tháng sau (tháng 8 - PV), "Dương cầm thu không em" của Dũng chắc chắn sẽ ra mắt khán giả”, Lê Anh Dũng chia sẻ.

Ngay sau khi tốt nghiệp, Lê Anh Dũng đã bắt tay hoàn thiện những khâu cuối cùng của CD "Dương Cầm Thu không em" sẽ có 9 ca khúc theo dòng thính phòng trữ tình, có chút bán cổ điển: Dương cầm thu không em (An Thuyên), Mơ về nơi xa lắm (Phú Quang - Thăng Long), Biển nỗi nhớ và em (Phú Quang), Em nghĩ gì khi mùa xuân đến (Trần Hoàn)…

Theo VTV

Tuesday, 12 August 2008

Chợt nghe mùa thu... (August 13, 2008)



Xin còn gọi tên nhau- Trường Sa viết tặng Lệ Thu năm 1972- Giọng hát Lệ Thu trong Asia Video "Đêm Sài Gòn 1" (1992)

Bài viết của Nguyễn Xuân Hoàng (Đặc Trưng):

.....Không một dân tộc nào thiếu tiếng hát của riêng mình. Không một người nào thiếu tiếng hát của cá nhân mình. Tuổi trẻ chúng ta đi qua, nhưng những tiếng hát vẫn còn y nguyên trong những chiếc dĩa nhạc cũ kỹ của mỗi người.


Tôi nghĩ, đôi khi nỗi buồn trong âm nhạc cũng là một sức mạnh. Sự khốn cùng có thể làm người ta đứng dậy như nỗi đau tận cùng của một âm điệu cũng làm người ta vùng lên làm nên giông bão.

Trong ý nghĩ đó tôi muốn viết về một tiếng hát của tôi: Lệ Thu, một trong số ít tiếng hát không ngừng chinh phục người nghe.

Từ hơn ba thập niên qua, tiếng hát của cô mỗi lần cất lên đều khiến người nghe phải dừng lại. Tiếng hát trời cho ấy phát ra từ một trái tim và đi thẳng vào trái tim người nghe để trở thành kỷ niệm. Dù bài hát ấy được nghe ở một phòng trà giữa một Sài Gòn tưởng chừng như không có bóng dáng của chiến tranh, hay trong một nơi trú quân xa gần biên giới, tiếng hát ấy luôn mang theo cái không khí lãng mạn mà không bi thảm, buồn bã mà không sướt mướt.

Trong tiếng hát của cô, người nghe khám phá ra sự quyến rũ của âm thanh, sự sáng tạo của âm điệu và lòng tự tin. Tiếng hát của cô chuyên chở một hơi thở mới trong nhịp và nhấn, trong luyến láy và gợi cảm.


Lệ Thu hát say mê như thể quanh cô không còn ai ngoài cô và chính tiếng hát của mình. Cô không hát chỉ như một ca sĩ, cô hát như một nghệ sĩ.


Nghe Lệ Thu trình bày Tình Khúc Thứ Nhất của Vũ Thành An, hay Ngậm Ngùi của Phạm Duy, người nghe biết rằng sau cô, những tiếng hát khác sẽ không hát như thế, không hát được như thế.


Phát âm rất chuẩn, giọng vang và rõ, tiếng hát của Lệ Thu thoát ra từ một lồng ngực khỏe mạnh và một trái tim đam mê. Lệ Thu không hát từ cổ họng.


Chúng ta hiểu vì sao cô không nhận hát bất cứ một ca khúc nào. Cô chọn bài hát, cô đọc từng ca từ, cô dạo nhạc để nghe tiết tấu của âm điệu. Và cô hát trước hết vì cô yêu ca khúc cô đã chọn.


Ở Sài Gòn hồi đó, cái thời chiến tranh còn mấp mé ở ven biên, nhưng lựu đan cay đã "xuống đường" tràn ngập phố phường, vào một tối thứ Năm, qua chương trình Nhạc Chủ Đề do Nguyễn Đình Toàn phụ trách, tôi nghe Lệ Thu hát. Những tình khúc xót xa hay đam mê cất lên giữa một cuộc chiến buồn bã. Thời đất nước không có một niềm vui. Tiếng hát Lệ Thu, dù sao rất ngậm ngùi.


Trước Hạ Trắng, trước cả Lời Buồn Thánh, ca khúc Việt Nam đầu tiên mà Lệ Thu hát là Xin Mặt Trời Ngủ Yên của Trịnh Công Sơn. Chắc cô hiểu vì sao mình đã chọn ca khúc đó, tôi nghĩ như vậy.


Bước chân đầu đời dẫn cô nữ sinh Bùi thị Oanh, trường Les Lauriers đến gần chiếc micro ở nhà hàng Bồng Lai với bài Tà Áo Xanh năm 1960 thoáng chốc trở thành ca sĩ Lệ Thu của những ca khúc Serenade, Smoke Gets In Your Eyes, La Vie En Rose, Les Feuilles Mortes.....


Đó là thời gian Sài Gòn nổi lên các tiếng hát Bạch Yến, Bích Chiêu, những tiếng hát đã tạo cho mình một chỗ đứng riêng, nhưng Lệ Thu bằng nhân dáng và nhân cách của mình, cô đã vẽ được quanh cô một vầng sáng khác biệt. Tiếng hát của cô vượt lên một khoảng trời khác, như một ngôi sao giữa những ngôi sao, mà ánh sáng của nó thu hút ngay khi lần đầu ta nhìn thấy nó.


Lệ Thu trở thành ca sĩ đắt giá nhất trong những năm 70. Cái mức lương một triệu đồng một tháng khi cô hát cho phòng trà Tự Do của ông Cường là cái giá kỷ lục của một ca sĩ vào thời điểm đó. Trước đó, khi bước vào phòng trà Queen Bee của Jo Marcel, - và sau đó là Ritz - tiếng hát của cô đã làm Tiny Young - một giọng hát lẫy lừng từ Pháp sang phải gẫy hợp đồng trở lại Paris.


Đó là thời gian người ta khám phá ra một Lệ Thu đầy ấn tượng. Lệ Thu hoàn toàn làm chủ sân khấu của mình. Người nghe đòi hỏi tiếng hát của cô, phải có tiếng hát của cô. Và cô biết tại sao mình phải chọn ca khúc nào cho người nghe của mình.


Khác với Thái Thanh, tiếng hát gắn liền với nhạc Phạm Duy; hay Khánh Ly, gần gũi nhạc Trịnh Công Sơn, Lệ Thu không ngã về một nhạc sĩ nào. Cô hát những ca khúc cô yêu thích. Cái thế giới âm nhạc của cô rộng hơn, đa dạng hơn, phong phú hơn. Cô hát nhạc Cung Tiến, Phạm Duy, Trịnh Công Sơn, Vũ Thành An, Trường Sa, Trần Trịnh, Đoàn Chuẩn - Từ Linh.....


Từ Ngậm Ngùi, Bên Cầu Biên Giới, Đường Em Đi, Lệ Đá, Hương Xưa, Tà Áo Xanh, đến... Nước Mắt Mùa Thu,... Lệ Thu như một người giữ bảo tàng những tình khúc của âm nhạc Việt Nam. Mặc dù cô khiêm tốn cho rằng những bài cô không chọn để hát không phải những bài ấy không hay, nhưng rõ ràng những ca khúc mà cô quyết định chọn trong nhạc lịch của mình, cô đã mang hơi thở cho đời sống của tác phẩm và tác giả. Phải nói những ca từ của một bài nhạc đã thu hút cô, trước khi âm điệu của nó quyến rũ cô.


Người ta không ngạc nhiên khi nghe cô trả lời phỏng vấn bằng ngôn ngữ trí tuệ.


Lệ Thu thuộc lớp ca sĩ kiểu như Juliette Greco của Pháp với những ca khúc như Sous Le Ciel de Paris, Je Hais Les Dimanches, Si Tu T'Imagines,... Cái khác là trong khi Juliette Greco với y phục toàn đen, đôi mắt đen, mái tóc dài đen, hát trong hầm tối, thì Lệ Thu tươi tắn hơn, hồng hào hơn, sống động hơn. Cô hát trong phòng trà nơi người ta đến để khiêu vũ, nhưng khi Lệ Thu cất tiếng, những điệu luân vũ đã ngừng lại. Người ta ngừng chân để lắng nghe cô hát.


Giờ đây đang bước vào một thiên niên kỷ mới, thế giới âm nhạc đã mang nhiều âm điệu mới, phong cách trình diễn cũng đã khác xa cái phong cách mà Lệ Thu trước đây từng chinh phục chúng ta. Người ca sĩ ngày nay mang theo hình ảnh một vũ công: tiếng hát của họ đòi hỏi một phối hợp nhịp nhàng với các động tác múa và đôi khi rất tuồng trên sân khấu. Người nghe bị chinh phục không phải chỉ bằng tiếng hát, mà bằng âm thanh, ánh sáng, màu sắc, và động tác.


Nhưng kỳ lạ thay, nghe Lệ Thu hát với một phong cách tĩnh như cách đây hàng mấy thập niên, người ta không thấy mình bị ép giữa những trang giấy cũ, những trang thư tình viết trên giấy kẻ với cây bút mực - mà tiếng hát ấy vang vọng lên như những tiếng động phát ra từ cái printer đặt dưới chân bàn.


Lệ Thu vẫn mới trong một phong cách điềm đạm. Trước đây, cô đã hát bằng hơi thở của thế hệ cô, liệu giờ đây giữa những cái mới trong nghệ thuật trình diễn, Lệ Thu có chinh phục được người nghe của thế hệ đương đại?

Dù sao với tôi, bao giờ cũng vậy, nghe Lệ Thu hát là một hạnh phúc. Hãy nghe cô hát, chúng ta sẽ thấy vì sao Lệ Thu không ngừng chinh phục chúng ta